1. Tên hoạt chất và biệt dược:
Hoạt chất : Insulin Glargine
Phân loại: Hormon làm hạ glucose máu, hormon chống đái tháo đường, các insulin.
Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)
Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): A10AE04
Brand name: Lantus 100UI/ml, Lantus Solostar 100IU/ml,
Generic : Insulin Glargine, Glaritus ,Insunova-G, Insunova-G Pen, Toujeo Solostar
2. Dạng bào chế – Hàm lượng:
Dạng thuốc và hàm lượng
Đơn vị: Hiệu lực của insulin được chuấn hóa theo khả năng làm giảm nồng độ glucose huyết của thỏ khỏe mạnh lúc đói như khi so sánh với chuấn insulin đối chiếu USP. Hiệu lực được biểu hiện bằng đơn vị USP/ml.
Thuốc tác dụng chậm, kéo dài: Bắt đầu tác dụng 1 – 2 giờ và kéo dài đến 24 giờ.
Insulin glargin: Insulin glargin là một thuốc sinh tổng hợp tương tự insulin người có tác dụng kéo dài, được điều chế bằng công nghệ tái tổ hợp DNA trên E. coli biến đổi gen và có cấu trúc khác với insulin người ở chỗ asparagin thay thế cho glycin ở vị trí 21 của chuỗi A và thêm 2 nhóm arginin vào điểm cuối C của chuỗi B. Dung dịch chỉ để tiêm dưới da: 100 đv/ml; Lọ 10 ml và ống 3 ml. 1 ml dung dịch chứa 100 đv tương đương 3,64 mg hoạt chất.
Thuốc tham khảo:
TOUJEO SOLOSTAR 300 units/ml | ||
Mỗi ml dung dịch tiêm có chứa: | ||
Insulin Glargine | …………………………. | 300 IU |
Tá dược | …………………………. | vừa đủ (Xem mục 6.1) |
3. Video by Pharmog:
[VIDEO DƯỢC LÝ]
————————————————
► Kịch Bản: PharmogTeam
► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog
► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/
► Group : Hội những người mê dược lý
► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/
► Website: pharmog.com
4. Ứng dụng lâm sàng:
4.1. Chỉ định:
Insulin Glargine được dùng để làm giảm lượng đường cao trong máu ở người lớn, thiếu niên và trẻ em từ 6 tuổi trở lên bị bệnh đái tháo đường khi cần điều trị bằng insulin. Đái tháo đường là bệnh mà cơ thể không sản xuất đủ insulin để kiểm soát nồng độ đường trong máu.
4.2. Liều dùng – Cách dùng:
Cách dùng :
Insulin Glargine được tiêm dưới da. Trong một vùng tiêm nhất định, mỗi lần tiêm nên chọn một vị trí tiêm khác nhau.
Vì thời gian tác động kéo dài lệ thuộc việc tiêm dưới da, Insulin Glargine không được dùng để tiêm tĩnh mạch vì có thể gây hạ đường huyết nặng.
Quan sát kỹ lọ thuốc trước khi dùng. Chỉ sử dụng nếu dung dịch trong suốt, không màu, không thấy có những hạt tiểu phân rắn và có độ lỏng giống như nước. Vì là một dung dịch, Insulin Glargine không cần phải pha trước khi dùng. Bơm tiêm không được chứa thuốc gì khác hoặc cặn thuốc khác.
Trộn hoặc pha chung với bất cứ chế phẩm nào đều có thể làm thay đổi hiệu quả của Insulin Glargine hoặc làm thuốc kết tủa và vì vậy nên tránh.
Nên ghi ngày rút thuốc lần đầu lên nhãn lọ.
Liều dùng:
Vì thuốc có tác động kéo dài, có thể tiêm Insulin Glargine mỗi ngày một lần vào bất cứ lúc nào, nhưng hàng ngày nên tiêm vào một giờ nhất định. Bác sĩ sẽ điều chỉnh liều dùng tùy từng người, và cũng sẽ hướng dẫn nên tiêm Insulin Glargine ở đâu, khi nào cần đo đường huyết và có cần xét nghiệm nước tiểu hay không. Bác sĩ có thể kê toa cho dùng Insulin Glargine cùng với một insulin khác tác động ngắn hoặc thuốc uống chống đái tháo đường.
Liều khởi đầu: Khoảng một phần ba đến một nửa – tổng nhu cầu insulin hàng ngày được dùng mỗi ngày một lần. Một insulin tác dụng nhanh hoặc tác dụng ngắn cũng nên được sử dụng để cân bằng (~ 1/2 đến 2/3) tổng nhu cầu insulin hàng ngày. Điều chỉnh liều theo đáp ứng của bệnh nhân. Để giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết, tránh dùng liều thường xuyên hơn 3 đến 4 ngày một lần.
Khi đang điều trị bằng insulin có tác động trung bình hoặc ngắn đổi sang dùng phác đồ điều trị Insulin Glargine có thể cần phải thay đổi liều insulin cơ bản và điều chỉnh điều trị chống đái tháo đường dùng kèm (liều lượng và thời điểm dùng thêm insulin tác dụng ngắn hoặc các thuốc tương đồng tác động nhanh hoặc liều lượng thuốc viên chống đái tháo đường).
Khi điều trị NPH insulin ngày 2 lần chuyển sang dùng Insulin Glargine mỗi ngày tiêm một lần, liều ban đầu phải giảm từ 20-30% (so với tổng số IU của NPH insulin mỗi ngày), rồi sau đó chỉnh liều dựa trên đáp ứng của từng bệnh nhân.
Việc giảm liều này ít ra phải được bù đắp phần nào bằng cách tăng insulin vào giờ ăn. Sau đó, phải chỉnh liều một lần nữa tùy từng người.
Ở những bệnh nhân, do tạo ra kháng thể trong quá trình điều trị insulin liều cao có thể cho đáp ứng cải thiện với các insulin tương tự insulin người, kể cả Insulin Glargine. Kiểm soát về mặt chuyển hoá, đặc biệt ở những bệnh nhân này, cần được theo dõi trong suốt quá trình chuyển đổi và trong vài tuần đầu sau khi chuyển đổi.
Với sự cải thiện kiểm soát chuyển hóa và hệ quả là tăng độ nhạy cảm với insulin (giảm nhu cầu insulin), có thể cần phải chỉnh liều thêm đối với Insulin Glargine và các insulin khác hoặc thuốc uống chống đái tháo đường khác trong phác đồ, có thể cần phải chỉnh liều thêm nữa. Việc chỉnh liều cũng cần thiết trong những trường hợp như thay đổi cân nặng hoặc lối sống, thay đổi giờ tiêm insulin hoặc các trường hợp làm tăng tính cảm nhiễm với hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết hay bệnh đi kèm (xem Cảnh báo). Chỉ được thay đổi liều lượng insulin với sự giám sát của thầy thuốc.
4.3. Chống chỉ định:
Quá mẫn với hoạt chất insulin hoặc với một thành phần của thuốc. Hạ glucose huyết.
4.4 Thận trọng:
Đại cương
Bệnh nhân cần được hướng dẫn những kỹ năng cần thiết để tự xử trí đái tháo đường, như theo dõi đường huyết, tiêm thuốc đúng kỹ thuật, các biện pháp để nhận biết và xử trí giảm hoặc tăng đường huyết như mô tả dưới đây. Ngoài ra, bệnh nhân phải tập đối phó với những tình huống đặc biệt như sót liều, dùng liều insulin không đủ hay quá cao, ăn uống không đầy đủ hoặc bỏ bữa. Hơn nữa, bệnh nhân và thân nhân phải biết cách nhận biết các dấu hiệu của triệu chứng hạ hoặc tăng đường huyết, những hành động cần làm để xử trí và khi nào phải báo cho bác sĩ.
Trong trường hợp không kiểm soát đường huyết một cách thỏa đáng hoặc có xu hướng xảy ra cơn hạ hoặc tăng đường huyết, cần loại trừ các yếu tố tiềm ẩn (như sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân, việc chọn chỗ tiêm và tiêm đúng kỹ thuật, thao tác với bút tiêm) trước khi xét đến việc chỉnh liều.
Vì kinh nghiệm còn hạn chế, không thể đánh giá tính hiệu quả và độ an toàn của Insulin Glargine Optiset trên trẻ em dưới 6 tuổi, trên bệnh nhân suy chức năng gan hoặc suy thận từ vừa đến nặng.
Trên bệnh nhân suy thận, nhu cầu insulin có thể giảm. Trên người cao tuổi, sự suy giảm chức năng thận có thể dẫn đến giảm nhu cầu insulin.
Trên bệnh nhân suy gan nặng, nhu cầu insulin có thể giảm do giảm khả năng tân sinh đường và giảm chuyển hóa insulin.
Hạ đường huyết
Thời điểm xảy ra hạ đường huyết tùy thuộc vào đặc điểm tác động của insulin được dùng và vì vậy có thể thay đổi khi thay đổi phác đồ điều trị. Vì có tác dụng ổn định và kéo dài hơn nên khả năng hạ đường huyết kết hợp với Insulin Glargine Optiset về đêm kém hơn nhưng nhiều hơn vào sáng sớm. Những bệnh nhân mà cơn hạ đường huyết có thể có ý nghĩa đặc biệt trên lâm sàng bao gồm những người bị hẹp động mạch vành có ý nghĩa hoặc hẹp mạch máu não (nguy cơ biến chứng tim mạch hoặc biến chứng não của hạ đường huyết), hoặc bệnh nhân có một vài bệnh mắt liên quan với đái tháo đường (bệnh võng mạc tăng sinh), nhất là khi không được điều trị bằng quang đông (nguy cơ mù mắt). Cần đặc biệt thận trọng và tăng cường theo dõi đường huyết trên những bệnh nhân này.
Hạ đường huyết dễ có khả năng xảy ra khi bắt đầu điều trị insulin, sau khi đổi sang dùng một chế phẩm insulin khác, khi kiểm soát chuyển hóa không ổn định, hoặc khi có bệnh nặng ở thận hoặc ở gan.
Các triệu chứng chứng tỏ khởi phát hạ đường huyết có thể là:
Vã mồ hôi, da lạnh và ẩm ướt, lo sợ, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, đánh trống ngực và nhịp tim không đều, đau thắt ngực. Trên nhiều bệnh nhân, những dấu hiệu và triệu chứng này thường xảy ra trước khi có dấu hiệu hạ đường huyết ở não. Loại triệu chứng thứ hai này bao gồm nhức đầu, cảm giác đói cồn cào, buồn nôn, ói mửa, mệt lả, lơ mơ, rối loạn giấc ngủ, bức rứt, kích động, mất tập trung, giảm phản ứng, trầm uất, lú lẫn, rối loạn giọng nói (đôi khi không nói được), rối loạn thị giác, run, yếu liệt, cảm giác kim châm (dị cảm), tê và cảm giác kim châm ở vùng miệng, chóng mặt, mất kiểm soát bản thân, mất khả năng tự chăm sóc, co giật, và mất tri giác.
Các dấu hiệu ban đầu chứng tỏ khởi phát cơn hạ đường huyết có thể thay đổi, nhẹ hơn, hoặc hoàn toàn không có trong các trường hợp sau đây: kiểm soát đường huyết được cải thiện đáng kể, hạ đường huyết phát triển chậm, cao tuổi, một số bệnh thần kinh (bệnh lý thần kinh tự chủ), đái tháo đường lâu ngày hoặc đồng thời dùng chung thuốc khác (xem Tương tác thuốc).
Trong những trường hợp đó, hạ đường huyết nặng (và thậm chí mất tri giác) có thể xảy ra mà bệnh nhân không biết. Bệnh nhân luôn luôn cần quen thuộc với những triệu chứng báo động của riêng họ. Xét nghiệm đường huyết thường xuyên hơn có thể giúp phát hiện những cơn hạ đường huyết nhẹ, nếu không có thể bỏ sót. Bệnh nhân không đoán chắc nhận ra được các triệu chứng báo động nên tránh những tình huống có thể rây nguy hiểm cho bản thân và cho người khác (ví dụ lái xe).
Việc tuân thủ liều được kê toa và ăn kiêng, tiêm insullin đúng cách và ý thức được các triệu chứng hạ đường huyết là cần thiết để giảm nguy cơ hạ đường huyết.
Tất cả các yếu tố làm tăng những nguy cơ đó cần được đặc biệt theo dõi sát và có thể cần phải chỉnh liều. Đó là:
Thay đổi vùng tiêm thuốc (ví dụ từ đùi đổi sang cánh tay),
Sự nhạy cảm insulin được cải thiện, ví dụ do loại trừ các yếu tố gây stress,
Không quen hoặc tăng hoạt động thể lực,
Triệu chứng bệnh gian phát (ví dụ ói mửa, tiêu chảy),
Ăn uống không đầy đủ như: bỏ bữa hoặc ăn muộn, ăn ít hơn bình thường hoặc ăn ít chất đường bột hơn bình thường, thay đổi chế độ ăn,
Uống rượu,
Một số rối loạn nội tiết mất bù, ví dụ nhược năng tuyến giáp hoặc suy thùy trước tuyến yên hay suy vỏ thượng thận,
Đồng thời dùng chung các thuốc khác (xem Tương tác thuốc).
Có thể điều chỉnh cơn hạ đường huyết bằng cách dùng ngay chất đường, ví dụ dưới dạng glucose, đường viên, hoặc nước uống có đường. Cần lưu ý rằng thức ăn hoặc thức uống chứa đường hóa học (ví dụ các thức ăn và thức uống ngọt) không thích hợp cho việc này. Do đó, nên dùng những thức ăn có tác dụng tăng đường huyết kéo dài (ví dụ bánh mì). Nếu hạ đường huyết tái diễn, nên dùng thêm 10-20g đường. Nếu không khắc phục được cơn hạ đường huyết hoặc lại tái diễn, nên báo ngay cho bác sĩ.
Luôn luôn mang theo ít nhất là 20g đường, cùng với thẻ cảnh báo bạn là bệnh nhân đái tháo đường. Khi không nuốt được hoặc mất tri giác buộc phải tiêm dung dịch glucose hoặc glucagon (một thuốc làm tăng đường huyết), ngay cả khi không chắc chắn là hạ đường huyết.
Sau khi dùng glucose, nên khẳng định tình trạng hạ đường huyết bằng cách xét nghiệm đường huyết.
Tác động kéo dài của Insulin Glargine Optiset có thể làm cho hạ đường huyết chậm hồi phục.
Tăng đường huyết
Tăng đường huyết có thể xảy ra trong một số trường hợp. Đó là:
Bỏ sót hoặc giảm số lần tiêm, hoặc giảm hiệu lực insulin (ví dụ do bảo quản không đúng),
Bút tiêm hỏng hóc,
Giảm hoạt động thể lực, tình trạng stress (cảm xúc đau buồn, kích thích), chấn thương, phẫu thuật, bệnh gây sốt hoặc một số bệnh khác,
Đồng thời dùng chung thuốc khác (xem Tương tác thuốc).
Khát nước, mót tiểu, mệt lả, khô da, đỏ mặt, chán ăn, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh và nước tiểu có nồng độ cao chất đường và thể keton, là những dấu hiệu của tăng đường huyết. Đau dạ dày, thở nhanh và sâu, lơ mơ hoặc thậm chí mất tri giác là những dấu hiệu của rối loạn chuyển hóa nặng (nhiễm toan-keton) do thiếu insulin.
Cần làm xét nghiệm đường huyết và xét nghiệm tìm keton trong nước tiểu càng sớm càng tốt khi xảy ra những triệu chứng đó. Tăng đường huyết nặng hoặc nhiễm toan-keton luôn luôn phải cần bác sĩ điều trị, thường là trong bệnh viện.
Bệnh gian phát
Nếu bị ốm, nên báo ngay cho bác sĩ trường hợp này có thể cần tăng cường theo dõi chuyển hóa, và có thể cần đến những biện pháp đặc biệt (ví dụ chỉnh liều, xét nghiệm nước tiểu tìm keton).
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.
Do hậu quả của hạ đường huyết, tăng đường huyết hoặc rối loạn thị giác (xem Tác dụng ngoại ý), khả năng tập trung và phản ứng có thể bị ảnh hưởng, có thể trở thành nguy cơ trong các tình huống đặc biệt cần có những khả năng này (ví dụ lái xe hoặc vận hành máy).
4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:
Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: B3
US FDA pregnancy category: C
Thời kỳ mang thai:
Phụ nữ có bệnh đái tháo đường từ trước hoặc trong khi mang thai phải duy trì kiểm soát tốt chuyển hóa trong thai kỳ. Trong ba tháng đầu, nhu cầu insulin thường giảm, nhưng thường tăng lên trong ba tháng giữa và ba tháng cuối. Ngay sau khi sinh, nhu cầu insulin lại giảm nhanh (tăng nguy cơ hạ đường huyết). Do đó, cần theo dõi kỹ đường huyết. Nếu có thai hoặc dự định có thai, nên báo cho bác sĩ biết.
Thời kỳ cho con bú
Insulin không qua sữa mẹ và dùng an toàn khi cho con bú. Nhu cầu về insulin của người mẹ có thể giảm xuống trong thời kỳ cho con bú. Trên phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ, cần thiết phải điều chỉnh liều dùng và chế độ ăn.
4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):
Hạ đường huyết (xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng) có thể xảy ra nếu liều insulin vượt quá nhu cầu. Hạ đường huyết có thể dẫn đến mất tri giác, và nếu nặng có thể gây nhồi máu cơ tim hoặc tổn thương não và có thể nguy hiểm tính mạng.
Một sự thay đổi rõ rệt nồng độ đường huyết có thể gây rối loạn thị giác thoáng qua. Sư kiểm soát đường huyết được cải thiện lâu dài làm giảm nguy cơ tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường. Tuy nhiên, điều trị insulin tích cực với sự cải thiện đường huyết đột ngột có thể tạm thời làm cho bệnh võng mạc đái tháo đường xấu hơn. Trên bệnh nhân có bệnh võng mạc tăng sinh, nhất là khi không được điều trị bằng quang đông, các cơn hạ đường huyết nặng có thể làm mất thị lực thoáng qua.
Mô mỡ dưới da có thể teo hoặc phì đại (teo mỡ hoặc phì đại mỡ) ở chỗ tiêm và làm chậm hấp thu insulin và tác dụng thuốc sẽ chậm hơn. Chọn một chỗ tiêm khác cho mỗi lần tiêm có thể giảm hoặc ngừa được những phản ứng này. Các phản ứng khác có thể xảy ra ở chỗ tiêm và cũng có thể lan ra vùng chung quanh. Những phản ứng này gồm đỏ, đau nhiều hơn thường lệ khi tiêm thuốc, ngứa, mề đay, sưng hoặc viêm. Những phản ứng đó thường biến mất trong vòng vài ngày đến vài tuần.
Trong một số hiếm trường hợp, có thể xảy ra phản ứng dị ứng nặng với insulin và các tá dược của thuốc. Đó là phản ứng lan rộng ngoài da, sưng nề da hoặc viêm mạc (phù Quincke), khó thở (co thắt phế quản), tụt huyết áp, và trụy tuần hoàn (sốc). Trong một số trường hợp, các phản ứng dị ứng nặng có thể đe dọa sinh mạng.
Các phản ứng khác
Tiêm insulin có thể hình thành các kháng thể chống insulin. Trong các nghiên cứu lâm sàng, những kháng thể phản ứng chéo với insulin người và insulin glargine được nhận thấy có cùng tần suất ở nhóm dùng NPH insulin và nhóm dùng insulin glargine.Trong một số hiếm trường hợp, sự hiện diện của những kháng thể insulin này buộc phải chỉnh liều.
Hạn hữu, insulin có thể gây giữ muối và nước trong các mô (phù), đặc biệt là sau khi sự kiểm soát chuyển hóa được cải thiện có ý nghĩa bằng liệu pháp tăng cường.
Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Các phản ứng dị ứng tại chỗ có thể xảy với bất cứ loại insulin nào và có thể xảy ra trong vòng 1- 3 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Các phản ứng tại chỗ thường tương đối nhẹ và thường hết trong vài ngày hoặc tuần. Kỹ thuật tiêm kém cũng góp phần vào phản ứng tại chỗ. Biểu hiện mẫn cảm tức thì thường xảy ra trong vòng 30 – 120 phút sau khi tiêm, có thể kéo dài trong vài giờ hoặc ngày và thường tự hết. Dị ứng insulin thực sự hiếm có, biểu hiện bằng nổi mày đay toàn thân, nốt phỏng, khó thở, thở khò khè (wheezing), hạ huyết áp, tim đập nhanh, vã mồ hôi, phù mạch và phản vệ. Các phản ứng này chủ yếu xảy ra khi dùng insulin ngắt quãng hoặc ở người có kháng thể kháng insulin tăng trong máu. Nhiều trường hợp nặng đòi hỏi phải sẵn sàng cấp cứu. Người bệnh nào đã có phản ứng dị ứng nặng phải được làm test da trước khi dùng bất cứ thuốc insulin mới nào. Có thể giải mẫn cảm cho người bệnh có tiềm năng dị ứng. Vì thường hay bị dị ứng với insulin bò hoặc lợn, hoặc protamin, hoặc protein, có thể ngăn chặn các phản ứng dị ứng về sau bằng cách thay thế một insulin chứa ít protein (như các insulin tinh chế bao gồm insulin người) hoặc không chứa protamin.
Nếu có hiệu ứng Somogyi, giảm liều buổi chiều insulin tác dụng trung gian hoặc tăng bữa phụ tối. Nếu có hiện tượng bình minh, tăng liều buổi tối insulin tác dụng trung gian và/hoặc tiêm muộn (như tiêm vào lúc đi ngủ, không tiêm vào bữa chiều).
ADR phổ biến nhất của insulin là hạ glucose huyết và có thể cả hạ kali huyết. Đặc biệt chú ý đến người có nguy cơ cao như đói, có đáp ứng kém chống lại hạ glucose huyết (như người bệnh có bệnh thần kinh thực vật, suy tuyến yên hoặc thượng thận, người dùng thuốc chẹn beta) hoặc người dùng thuốc giảm kali. Nồng độ glucose và kali huyết phải được theo dõi sát khi insulin được truyền tĩnh mạch. Thay đổi nhanh nồng độ glucose huyết có thể thúc đấy biểu hiện hạ glucose huyết bất luận nồng độ glucose huyết là bao nhiêu. Có thể giảm nguy cơ tiềm ấn hạ glucose huyết muộn sau ăn do insulin tác dụng nhanh bằng thay đổi giờ ăn, số lần ăn, lượng ăn, thay đổi tập luyện, giám sát thường xuyên glucose huyết, điều chỉnh liều insulin và/hoặc chuyển sang insulin tác dụng nhanh hơn (như insulin lispro, insulin glulisin). Hạ glucose huyết nặng và thường xuyên xảy ra là một chỉ định tuyệt đối thay đổi phác đồ điều trị. Người đái tháo đường trước khi lái xe, phải kiểm tra glucose huyết và phải có biện pháp tránh hạ glucose huyết (nguồn cung cấp glucose) trên xe.
Xử lý hạ glucose huyết: Đối với hạ glucose nhẹ, tốt nhất là cho qua miệng 10 – 20 g glucose, hoặc bất cứ thức ăn dạng carbohydrat chứa glucose như nước cam hoặc nước quả, đường, đường phèn… Liều lượng có thể lặp lại 15 phút sau nếu glucose huyết vẫn dưới 70 mg/dl (tự đo) hoặc vẫn còn triệu chứng của hạ glucose huyết. Một khi glucose huyết trở lại bình thường, nên ăn một bữa nếu gần đến giờ ăn hoặc ăn một bữa phụ.
4.8 Tương tác với các thuốc khác:
Một số thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và cần phải chỉnh liều và theo dõi thật sát.
Tăng tác dụng hạ đường huyết và tăng cảm nhiễm với hạ đường huyết có thể xảy ra khi dùng chung với thuốc viên chống đái tháo đường, thuốc ức chế men chuyển, disopyramide, fibrate, fluoxetine, thuốc ức chế MAO, pentoxifylline, propoxyphene, salicylate, hoặc kháng sinh sulfonamide.
Giảm tác dụng hạ đường huyết có thể xảy ra khi dùng chung với corticosteroid, danazol, diazoxide, lợi tiểu, glucagon, isoniazid, estrogen và progestogen (ví dụ thuốc viên tránh thai), dẫn chất phenothiazine, somatropin, thuốc cường giao cảm [như epinephrine (adrenaline), salbutamol, terbutaline], hoặc hormone tuyến giáp.
Thuốc chẹn bêta, clonidine, muối lithium hoặc rượu có thể tăng cường hoặc làm yếu tác dụng giảm đường huyết của insulin. Pentamidine có thể gây hạ đường huyết, đôi khi tiếp theo là tăng đường huyết. Hơn nữa, thuốc chẹn bêta – cũng như các thuốc liệt giao cảm khác (như clonidine, guanehtidine, reserpine) – còn làm yếu hoặc thậm chí ức chế toàn bộ các triệu chứng báo động của phản ứng hạ đường huyết.
4.9 Quá liều và xử trí:
Hậu quả chính của quá liều là hạ glucose huyết với các triệu chứng nhược cơ, cảm giác đói, vã mồ hôi toàn thân, nhức đầu, run, rối loạn thị giác, dễ bị kích thích, lú lẫn và rồi hôn mê do hạ đường huyết. Các yếu tố thuận lợi làm xuất hiện hạ đường huyết là rượu, đói, hoạt động thể lực quá mức so với thường ngày, nhầm liều, do tiêm bắp, đổi dùng từ dạng insulin hòa tan thông thường sang loại insulin đơn loại tinh khiết cao hay do tương tác thuốc.
Xử trí: Hạ glucose huyết nhẹ (vã mồ hôi, nhợt nhạt, đánh trống ngực, run, nhức đầu, thay đổi hành vi) có thể cho ăn thức ăn chứa carbohydrat (bánh ngọt, viên đường, kẹo) hoặc uống (nước ép quả, cam). Hạ glucose huyết nặng (hôn mê, co giật) đòi hỏi phải điều trị bằng glucagon hoặc dung dịch glucose tĩnh mạch. Hạ glucose huyết nặng do insulin ít xảy ra nhưng là một cấp cứu nội khoa đòi hỏi phải điều trị ngay. Người lớn hạ glucose huyết nặng (như li bì, đau đầu, lú lẫn, vã mồ hôi, vật vã, co giật) hoặc hôn mê do quá liều insulin và có đủ dự trữ glycogen ở gan, phải cho tiêm dưới da, tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 1 đv (1 mg) glucagon; người bệnh phải có sẵn một lọ glucagon trong gia đình để tiêm trong trường hợp cấp cứu. Nếu người bệnh không đáp ứng hoặc không có glucagon, phải cho khoảng 10 – 25 g glucose dưới dạng dung dịch glucose tiêm tĩnh mạch 50%, 20 – 50 ml. Trong trường hợp nặng (cố ý quá liều), có thể cần glucose tĩnh mạch liều cao hơn hoặc lặp lại nhiều lần. Tiếp tục truyền glucose tĩnh mạch liên tục 5 – 10 g/giờ để duy trì nồng độ glucose huyết thỏa đáng cho tới khi người bệnh tỉnh và ăn được. Phải giám sát chặt người bệnh vì hạ glucose huyết có thể trở lại. Để phòng phản ứng hạ glucose huyết, phải cho ăn ngay carbohydrat khi người bệnh tỉnh.
Ớ trẻ em và thiếu niên bị hạ glucose huyết nặng, glucagon với liều 30 microgam/kg tiêm dưới da, tối đa 1 mg (1 đơn vị) làm tăng nồng độ glucose huyết trong 5 – 10 phút nhưng có thể gây nôn hoặc buồn nôn. Cho glucagon liều thấp hơn (10 microgam/kg) ít gây buồn nôn nhưng tăng glucose huyết ít hơn.
5. Cơ chế tác dụng của thuốc :
5.1. Dược lực học:
Insulin glargin là chất tương đồng insulin người được thiết kế để có độ hòa tan thấp ở pH trung tính. Thuốc tan hoàn toàn ở pH acid của dung dịch tiêm Insulin Glargine (pH 4). Sau khi tiêm vào mô dưới da, dung dịch có tính acid này được trung hòa dẫn đến sự hình thành các vi tủa để từ đó phóng thích liên tục những lượng nhỏ insulin glargin, đem lại một nồng độ thuốc theo thời gian ít dao động, không có đỉnh, có thể tiên đoán được, với thời gian tác động kéo dài.
Sự kết gắn thụ thể insulin: Insulin glargin khá giống với insulin người về mặt động học kết gắn thụ thể Insulin. Do đó, nó có thể được xem là làm trung gian cho cùng một kiểu tác dụng như insulin qua thụ thể insulin.
Hoạt tính chính của insulin, kể cả insulin glargin, là điều hòa sự chuyển hóa glucose. Insulin và các chất tương đồng của nó hạ thấp nồng độ glucose trong máu bằng cách kích thích sự thu nạp glucose ngoại biên, đặc biệt là ở cơ vân và mỡ, và bằng cách ức chế sự sản xuất glucose ở gan. Insulin ức chế sự phân giải mỡ trong tế bào mỡ, ức chế sự phân giải protein và tăng cường tổng hợp protein.
Trong các nghiên cứu dược lý học lâm sàng, insulin glargin và insulin người tiêm tĩnh mạch được chứng minh là có hoạt lực bằng nhau khi dùng cùng một liều lượng. Như tất cả các insulin khác, diễn biến thời gian tác động của insulin glargin có thể bị ảnh hưởng của hoạt động thể lực và các biến số khác.
Trong các nghiên cứu truyền glucose giữ đường huyết ổn định trên các đối tượng khỏe mạnh hoặc trên bệnh nhân đái tháo đường týp 1, khởi phát tác động của insulin glargin tiêm dưới da chậm hơn so với NPH insulin người, diễn biến tác dụng của nó ít dao động và không có đỉnh, và thời gian tác động kéo dài.
Thời gian tác động kéo dài cùa insulin glargin có liên quan trực tiếp với tốc độ hấp thu chậm của nó và ủng hộ cho việc dùng thuốc mỗi ngày một lần. Khoảng thời gian tác động của insulin và các chất tương đồng insulin như insulin glargin có thể thay đổi đáng kể trên những cá thể khác nhau hoặc trên cùng một cá thể.
Trong một nghiên cứu lâm sàng, các triệu chứng của hạ đường huyết hoặc đáp ứng với hormon điều hòa ngược đều tương tự nhau sau khi tiêm tĩnh mạch insulin glargin và insulin người trên người tình nguyện khỏe mạnh lẫn trên bệnh nhân đái tháo đường týp 1.
Tác dụng của Insulin Glargine (mỗi ngày một lần) trên bệnh võng mạc đái tháo đường đã được đánh giá trong một nghiên cứu đối chứng 5 năm công khai tên thuốc với NPH (NPH được tiêm ngày hai lần) trên 1024 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mà sự tiến triển của bệnh võng mạc sang bước 3 hoặc hơn nữa trên thang điểm ETDRS (Early Treatment Diabetic Retinopathy study) được khảo sát bằng phương pháp chụp hình đáy mắt. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa về sư tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường khi so sánh Insulin Glargine với NPH insulin.
Cơ chế tác dụng:
Insulin ngoại sinh thường có tất cả các tác dụng dược lý của insulin nội sinh. Insulin kích thích chuyển hóa carbohydrat ở mô cơ – xương, tim và mỡ bằng cách tạo thuận lợi cho quá trình vận chuyển glucose vào trong tế bào. Mô thần kinh, hồng cầu, và các tế bào ở ruột, gan và ống thận không cần insulin để vận chuyển glucose. Ớ gan, insulin tạo thuận lợi cho phosphoryl hóa glucose thành glucose-6-phosphat, chất này được chuyển thành glycogen hoặc chuyển hóa tiếp.
Insulin cũng tác dụng trực tiếp đến chuyển hóa mỡ và protein. Hormon này kích thích tạo mỡ và ức chế tiêu mỡ và giải phóng acid béo tự do từ các tế bào mỡ. Insulin cũng kích thích tổng hợp protein. Cho insulin với liều thích hợp cho người đái tháo đường týp 1 (phụ thuộc insulin) phục hồi nhất thời khả năng chuyển hóa carbohydrat, mỡ và protein, để dự trữ glucose ở gan và để chuyển glycogen thành mỡ. Khi insulin với liều thích hợp cho cách đều nhau cho người đái tháo đường, nồng độ hợp lý glucose trong máu được duy trì, nước tiểu tương đối không có glucose và chất ceton, ngăn chặn được nhiễm toan đái tháo đường, hôn mê. Tác dụng của insulin bị đối kháng bởi somatropin (hormon tăng trưởng), epinephrin, glucagon, hormon vỏ tuyến thượng thận, tuyến giáp và estrogen. Insulin kích thích kali và magnesi chuyển vào trong tế bào, do đó tạm thời làm giảm nồng độ tăng cao của các ion đó.
[XEM TẠI ĐÂY]
5.2. Dược động học:
Trên người khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường, sau khi tiêm dưới da insulin glargine, nồng độ insulin trong huyết thanh chứng tỏ một sự hấp thu chậm hơn và kéo dài hơn, và không thấy đỉnh nồng độ khi so sánh với NPH insulin người. Vì vậy, nồng độ phù hợp với diễn biến hoạt tính dược lực học của insulin glargine theo thời gian.
Thời gian tác dụng kéo dài 24 giờ, không đỉnh.
Insulin glargine tiêm mỗi ngày một lần sẽ đạt được trạng thái ổn định nồng độ trong vòng 2-4 ngày sau liều đầu tiên.
Khi tiêm tĩnh mạch, thời gian bán thải của insulin glargine và insulin người tương tự như nhau.
Trên người, insulin glargine bị phân hủy một phần trong mô dưới da ở đầu tận carboxyl của chuỗi bêta, với sự hình thành các chất chuyển hóa có hoạt tính 21A-Gly-insulin và 21A-Gly-des-30B-Thr-insulin. Insulin glargine không bị biến đổi và các sản phẩm phân hủy đều hiện diện trong huyết tương.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, phân tích phân nhóm theo tuổi và giới không cho thấy sự khác biệt nào về tính an toàn và hiệu quả trên bệnh nhân điều trị insulin glargine so với toàn bộ quần thể nghiên cứu.
Tác dụng | Bắt đầu tác dụng (giờ) | Tác dụng tối đa (giờ) | Tác dụng kéo dài (giờ) |
Kéo dài | |||
Insulin glargin tiêm | 1,1 | 2 – 20 | 24 |
5.3 Giải thích:
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
5.4 Thay thế thuốc :
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
*Lưu ý:
Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ
Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com
6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:
6.1. Danh mục tá dược:
Zinc chloride, Metacresol, Glycerol, Hydrochloric acid (for pH adjustment), Polysorbate 20, Sodium hydroxide (for pH adjustment), Water for injections.
6.2. Tương kỵ :
Trộn hoặc pha chung với bất cứ chế phẩm nào đều có thể làm thay đổi hiệu quả của Insulin Glargine hoặc làm thuốc kết tủa và vì vậy nên tránh.
6.3. Bảo quản:
Để ngoài tầm tay và tầm mắt của trẻ em.
Bút tiêm không sử dụng
Bảo quản trong tủ lạnh (2°C – 8°C). Không được để đông lạnh.
Không đặt SoloStar gần ngăn đá hoặc vỉ đá trong tủ lạnh.
Giữ nguyên bút tiêm trong hộp để tránh ánh sáng.
Bút tiêm đang sử dụng
Bút tiêm nạp sẵn đang sử dụng hoặc được mang theo để dự trữ có thể bảo quản tối đa 4 tuần ở nhiệt độ không quá 30°c, tránh sức nóng và ánh sáng trực tiếp.
Bút tiêm đang sử dụng không nên bảo quản trong tủ lạnh. Đừng dùng bút tiêm sau khoảng thời gian nói trên.
Không được tiêu hủy thuốc qua nước thải hoặc rác thải sinh hoạt. Hãy hỏi dược sĩ về cách tiêu hủy thuốc không còn cần thiết. Những biện pháp này sẽ giúp bảo vệ môi trường.
6.4. Thông tin khác :
Không có.
6.5 Tài liệu tham khảo:
Dược Thư Quốc Gia Việt Nam