Thông tin tờ hướng dẫn sử dụng của thuốc Viên nén Abacavir 300 mg
Viên nén Abacavir 300 mg do công ty Aurobindo Pharma Limited sản xuất, là một loại thuốc thuộc nhóm chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI) dùng để phối hợp cùng với các loại thuốc chống vi-rút khác để điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Dưới đây là nội dung tờ hướng dẫn sử dụng của Thuốc Viên nén Abacavir 300 mg (Thông tin bao gồm liều dùng, cách dùng, chỉ định, chống chỉ định, thận trọng, dược lý…):
1. Tên hoạt chất và biệt dược:
Hoạt chất : Abacavir (ABC)
Phân loại: Thuốc kháng virus. Nhóm Nucleoside ức chế phiên mã ngược (NRTI). Thuốc điều trị HIV.
Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)
Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): J05AF06.
Biệt dược gốc: Hiện chưa có thuốc đăng ký biệt dược gốc tại Việt Nam.
Biệt dược: Viên nén Abacavir 300 mg
Hãng sản xuất : Aurobindo Pharma Limited
Hãng tiếp thị : Aurobindo Pharma Limited.
2. Dạng bào chế – Hàm lượng:
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén bao phim chứa Abacavir sulfat USP tương đương với abacavir 300 mg.
Hình ảnh minh họa:
VIÊN NÉN ABACAVIR 300 MG | ||
Mỗi viên nén bao phim có chứa: | ||
Abacavir | …………………………. | 300 mg |
Tá dược | …………………………. | vừa đủ (Xem mục 6.1) |
3. Thông tin dành cho người sử dụng:
3.1. Viên nén Abacavir 300 mg là thuốc gì?
Viên nén Abacavir 300 mg do công ty Aurobindo Pharma Limited sản xuất, là một loại thuốc thuộc nhóm chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI) dùng để phối hợp cùng với các loại thuốc chống vi-rút khác để điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
3.2. Câu hỏi thường gặp phổ biến:
Cơ chế tác dụng của thuốc Abacavir như thế nào ?
Abacavir là chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI). Abacavir có thể ngăn chặn hoạt động của enzyme sao chép ngược, một loại enzyme do HIV tạo ra để tự nhân lên trong các tế bào mà nó đã lây nhiễm và lây lan trong cơ thể. Abacavir không phải là thuốc chữa khỏi tình trạng nhiễm HIV mà nó thường được dùng phối hợp với các loại thuốc kháng vi-rút khác để làm giảm lượng virus trong máu và giữ nồng độ virus này ở mức thấp.
Abacavir có nằm trong danh mục bảo hiểm y tế ở Việt Nam không?
Abacavir CÓ nằm trong danh mục bảo hiểm y tế ở Việt Nam. Do đó người bệnh có thể được kê đơn và lĩnh thuốc này tại các cơ sở khám chữa bệnh theo tuyến bảo hiểm y tế. Thông thường các thuốc điều trị HIV/AIDS sẽ được cấp phát tại trạm y tế xã theo hướng dẫn quản lý, điều trị và chăm sóc của Bộ Y tế.
4. Thông tin dành cho nhân viên y tế:
4.1 Chỉ định:
Viên nén abacavir được chỉ định trong phác đồ điều trị kết hợp cho người bị nhiễm virut gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Hiệu quả của viên nén abacavir chủ yếu dựa trên kết quả nghiên cứu thực hiện với liệu pháp điều trị 2 lần/ngày, trong phác đồ điều trị kết hợp trên bệnh nhân là người trưởng thành chưa điều trị bao giờ (xem mục đặc tính dược lực học).
4.2 Liều dùng – Cách dùng:
Cách dùng :
Viên nén abacavir nên được chỉ định kê đơn bởi bác sỹ đã có kinh nghiệm điều trị HIV.
Viên nén acabavir có thể được sử dụng kèm hoặc không kèm với thức ăn.
Để đảm bảo uống đủ liều, không nên nghiền nhỏ viên nén khi uống.
Trường hợp, bệnh nhân không thể uống nguyên viên nén, có thể nghiền nhỏ viên nén rồi trộn với một lượng nhỏ thức ăn dạng lỏng/bán rắn khi dùng (xem mục đặc tính dược động học), và cần phải ăn toàn bộ ngay lập tức.
Liều dùng:
Người trưởng thành và trẻ trên 12 tuổi: Liều khuyên dùng là 600mg/ngày. Có thể uống mỗi lần 300mg (một viên) x 2 lần/ngày hoặc uống một lần 600mg (hai viên) x 1 lần/ngày (xem mục thận trọng khi dùng thuốc và đặc tính dược lực học).
Bệnh nhân chuyển sang chế độ 1 lần/ngày nên uống 300mg x 2 lần/ngày và chuyển sang uống 600mg x 1 lần/ngày vào sáng tiếp theo. Ở những bệnh nhân hay dùng liều duy nhất vào buổi tối, viên nén abacavir 300mg nên được uống vào buổi sáng đầu tiên, tiếp theo là 600mg vào buổi tối. Khi mà thay đổi ngược lại sang liệu pháp 2 lần/ngày bệnh nhân phải uống hết thuốc của ngày hôm trước và bắt đầu bằng 300mg x 2 lần/ ngày vào buổi sáng tiếp theo.
Trẻ em (dưới 12 tuổi): Khuyến cáo dùng viên nén abacavir theo nhóm cân nặng. Phác đồ liều điều trị đối bệnh nhân trẻ em trong nhóm cân nặng trong khoảng 14 đến 30 kg căn cứ theo đặc tính dược động học. Phơi nhiễm dược động học quá mức của viên nén abacavir có thể xảy ra do không thể tính liều chính xác với chế phẩm viên nén này. Do đó, cần theo dõi chặt chẽ tính an toàn đối với những bệnh nhân này.
Trẻ em câng nặng ≥ 30kg: Nên uống theo liều dành cho người trưởng thành là 300mg x 2 lần/ngày.
Trẻ em cân nặng >21 kg và < 30kg: Nửa liều viên nén abacavir buổi sáng và một liều đủ vào buổi tối.
Trẻ em cân nặng từ 14 đến 21kg: Nửa liều viên nén abacavir x 2 lần/ngày.
Trẻ em dưới 3 tháng: Dữ liệu về sử dụng thuốc cho nhóm tuổi này còn rất hạn chế (xem mục Đặc tính dược động học).
Suy thận: Không cần thiết điều chỉnh liều viên nén abacavir ở bệnh nhân rối loạn chức năngthận. Tuy nhiên, tránh dùng viên nén abacavir đối với bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối (xem mục Đặc tính dược động học).
Suy gan: Abacavir được chuyển hóa chủ yếu tại gan. Không có khuyến cáo sử dụng abacavir trên bệnh nhân suy gan nhẹ. Không có dữ liệu về việc sử dụng hoạt chất này trên bệnh nhân suy gan mức độ vừa phải, do vậy, không khuyến cáo dùng abacavir trừ trường hợp thật cần thiết. Cần phải theo dõi chặt chẽ các bệnh nhân suy gan ở mức độ nhẹ và vừa phải, và nếu có thể thì nên theo dõi nồng độ abacavir huyết tương (xem mục Đặc tính dược động học).
Chống chỉ định abacavir trên các bệnh nhân suy gan nặng (xem mục Chống chỉ định và Thận trọng khi dùng thuốc).
Người già: Không có dữ liệu về dược động học ở bệnh nhân trên 65 tuổi.
4.3 Chống chỉ định:
Chống chỉ định viên nén abacavir trên các bệnh nhân có biểu hiện quá mẫn với abacavir hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Xem THÔNG TIN VỀ PHẢN ỨNG QUÁ MÃN ở mục Thận trọng khi dùng thuốc và tác dụng không mong muốn của thuốc).
Chống chỉ định dùng abacavir trên bệnh nhân suy gan nặng.
4.4 Thận trọng:
Phản ứng quá mẫn: (xem mục Tác dụng không mong muốn):
Theo kết quả nghiên cứu lâm sàng, 3,4% bệnh nhân có HLA-B*5701 khi dùng abacavir đã có biểu hiện quá mẫn với thuốc. Nghiên cứu cho thấy quá trình vận chuyển gen tương ứng HLAB*5701 cũng làm tăng nguy cơ gây phản ứng quá mẫn với abacavir. Dựa trên nghiên cứu CAN 106030 (DỰ ĐOÁN-1) tiếp theo, việc sàng lọc alen HLA-B*5701 trước khi tiến hành điều trị bằng abacavir làm giảm đáng kể ảnh hưởng của phản ứng quá mẫn. Ước tính dựa theo kết quả nghiên cứu PREDICT-I thì có từ 48% đến 61% bệnh nhân có alen HLA-B*5701 có phản ứng quá mẫn trong quá trình điều trị bằng abacavir so với chỉ từ 0% đến 4% đối với bệnh nhân không chứa alen HLA-B*5701.
Các kết quả này phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây.
Do đó, trước khi bắt đầu điều trị với abacavir, cần tiến hành sàng lọc người mang alen HLAB*5701 ở bất kỳ bệnh nhân nhiễm HIV nào, không phân biệt chủng tộc. Nên tiến hành sàng lọc trên bệnh nhân chưa rõ có mang alen HLA-B*5701 hay không dù trước đó đã dung nạp abacavir trước khi bắt đầu điều trị lại bằng abacavir (xem “Lưu ý sau khi ngưng phác đồ điều trị viên nén abacavir”). Không nên sử dụng abacavir ở bệnh nhân mang alen HLA-B*5701, trừ khi không có phác đồ điều trị nào khác để lựa chọn dựa trên tiền sử điều trị và thử nghiệm kháng thuốc (xem mục Chỉ định).
Trên bất kỳ bệnh nhân nào điều trị với abacavir, chẩn đoán lâm sàng nghi ngờ có phản ứng quá mẫn vẫn phải là căn cứ để có quyết định lâm sàng. Lưu ý là trong số các bệnh nhân nghỉ ngờ có phản ứng quá mẫn lâm sàng, có một tỷ lệ bệnh nhân nhất định không mang alen HLA-B*5701. Do do, ngay cả khi không mang alen HLA-B*5701, nhất thiết phải ngưng sử dụng abacavir vĩnh viễn và không thử lại với abacavir nếu không thể loại trừ phản ứng quá mẫn trên lâm sàng, do tiềm ẩn phản ứng nghiêm trọng hoặc thậm chí gây tử vong.
Thử nghiệm trên da được sử dụng như một công cụ xác định trong nghiên cứu PREDICT-I, tuy nhiên thử nghiệm này không ứng dụng được để quản lý bệnh nhân trên lâm sàng và do đó không nên sử dụng trên lâm sàng.
Mô tả lâm sàng
Những phản ứng quá mẫn đặc trưng ở chỗ xuất hiện các triệu chứng liên quan đến nhiều cơ quan trong cơ thể. Hầu hết các biểu hiện quá mẫn đều có sốt và/hoặc phát ban.
Các dấu hiệu và triệu chứng khác bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng như khó thở, đau họng, ho và những dấu hiệu bất thường khi chụp X-quang ngực (phần lớn là tràn dịch có thể khu trú), các triệu chứng về đường tiêu hóa, như buôn nôn, nôn, tiêu chảy hoặc đau bụng, và có thể dẫn đến chẩn đoán nhằm phản ứng quá mẫn thành bệnh của đường hô hấp (như viêm phổi, viêm phế quản, viêm họng) hoặc viêm loét dạ dày. Những dấu hiệu và triệu chứng của các phản ứng quá mẫn hay gặp khác có thể bao gồm hôn mê, mệt mỏi và các triệu chứng về cơ xương (chứng đau cơ, thoái hóa cơ hiếm gặp, đau khớp).
Những triệu chứng có liên quan tới phản ứng quá mẫn sẽ trở lên nghiêm trọng hơn nếu cứ tiếp tục dùng thuốc và có thể đe dọa tính mạng. Thông thường, những triệu chứng này sẽ hết khi ngừng sử dụng viên nén abacavir.
Điều trị lâm sàng:
Những biểu hiện quá mẫn thường xuất hiện ở 6 tuần đầu tiên khi sử dụng abacavir, mặc dầu những biểu hiện này có thể xuất hiện tại bất cứ thời điểm nào trong thời gian dùng thuốc.Bệnh nhân phải được theo dõi chặt chẽ, khám hội chẩn 2 tuần/lần đặc biệt trong hai tháng đầu điều trị với viên nén abacavir.
Bệnh nhân được chẩn đoán có phản ứng quá mẫn trong quá trình điều trị phải ngưng dùng viên nén abacavir ngay lập tức trong trường hợp bệnh nhân có mang alen HLA-B*5701.
Không bao giờ được sử dụng lại viên nén abacavir, hoặc bất kỳ chế phẩm nào chứa abacavir (ví dụ Kivexa, Trizivir) ở bệnh nhân trước đó đã phải ngưng điều trị do phản ứng quá mẫn. Việc sử dụng trở lại abacavir sau một phản ứng quá mẫn sẽ dẫn đến xuất hiện trở lại nhanh chóng các triệu chứng trong vòng một vài giờ. Sự xuất hiện trở lại các triệu chứng này thường nghiêm trọng hơn biểu hiện ban đầu, có thể đe dọa tính mạng và dẫn đến tử vong.
Để tránh trì hoãn trong việc chẩn đoán, và giảm thiểu nguy cơ phản ứng quá mẫn đe dọa tính mạng, ngưng sử dụng viên nén abacavir vĩnh viễn nếu không loại trừ được phản ứng quá mẫn này, thậm chí cả khi các chẩn đoán khác là có thể (bệnh về đường hô hấp, bệnh giống như cảm cúm, bệnh viêm loét dạ dày hoặc các phản ứng đối với các liệu pháp điều trị khác).
Phải tiến hành đồng thời các biện pháp chăm sóc chuyên khoa cần thiết cho các bệnh nhân ngay khi bắt đầu điều trị bằng viên nén abacavir và các chế phẩm khác đã được biết gây cảm ứng độc tính với da (như là các chất ức chế enzym phiên mã ngược không phải nueleosid – NNRTIs). Bởi vì khó phân biệt giữa chứng phát ban do các chế phẩm này gây ra và các phản ứng quá mẫn có liên quan đến acabavir.
Điều trị sau khi có sự gián đoạn trong liệu pháp điều trị bằng viên nén abacavir
Bất kể là bệnh nhân có mang alen HLA-B*5701 hay không, nếu quá trình điều trị bằng viên nén abacavir bị gián đoạn vì bất kỳ lý do gì và cân nhắc việc tiếp tục sử dụng lại, thì lý do ngừng sử dụng thuốc phải được xác định để đánh giá xem liệu bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng quá mẫn không. Nếu như không thể loại trừ phản ứng quá mẫn thì không được sử dụng trở lại viên nén abacavir hoặc bất cứ chế phẩm nào chứa abacavir (ví dụ Kivexa, Trizivir).
Các phản ứng quá mẫn xuất hiện dồn dập ngay từ đầu, kể cả các phản ứng đe dọa tới tính mạng xảy ra sau khi sử dụng trở lại thuốc này ở các bệnh nhân chỉ biểu hiện một trong số các triệu chứng chính của phản ứng quá mẫn (như phát ban, sốt, viêm loét dạ dày, các dấu hiệu cấp tính hoặc mạn tính như hôn mê và tình trạng mệt xỉu), trước khi ngừng sử dụng viên nén abacavir. Triệu chứng tách biệt hay gặp nhất của phản ứng quá mẫn là phát ban. Ngoài ra, rất hiếm gặp các phản ứng quá mẫn ở các bệnh nhân sử dụng trở lại thuốc này, và mà trước đó không hề có các triệu chứng của phản ứng quá mẫn. Trong cả hai trường hợp, nếu quyết định phải sử dụng lại thuốc này thì phải sử dụng trong hoàn cảnh sẵn sàng có hỗ trợ y tế.
Sàng lọc người mang alen HLA-B*5701 được khuyến cáo trước khi bắt đầu điều trị lại với abacavir ở bệnh nhân không rõ có mang alen HLA-B*5701 hay không cho dù đã có dung nạp abacavir trước đó. Không nên bắt đầu lại với abacavir ở bệnh nhân có kết quả kiểm tra dương tính alen HLA-B*5701 và chỉ nên xem xét trong trường hợp đặc biệt khi lợi ích có thể có nhiều hơn nguy cơ và kèm theo giám sát y tế chặt chẽ.
Thông tin cần thiết dành cho bệnh nhân
Bác sĩ kê đơn phải đảm bảo rằng bệnh được thông tin một cách đầy đủ những thông tin về phản ứng quá mãn dưới đây:
– Bệnh nhân phải được cảnh báo về khả năng xảy ra phản ứng quá mẫn với abacavir có thể đe dọa tính mạng và dẫn tới tử vong và nguy cơ phản ứng quá mẫn nghiêm trọng hơn đối với bệnh nhân có mang alen HLA-B*5701.
– Bệnh nhân cũng cần được thông tin đầy đủ về phản ứng quá mẫn của abacavir cũng có thể xảy ra đối với bệnh nhân không mang alen HLA-B*5701. Điều đó có nghĩa là các dấu hiệu hoặc triệu chứng của phản ứng quá mẫn với abacavir có thể xuất hiện trên bất kỳ bệnh nhân nào trong quá trình điều trị.
PHẢI LIÊN HỆ VỚI BÁC SĨ NGAY LẬP TỨC.
– Bệnh nhân mẫn cảm với abacavir không nên điều trị lại bằng viên nén abacavir hoặc bất kỳ thuốc nào có chứa thành phần abacavir (ví dụ: Kivexa, Trizivir), dù có hay không mang alen HLA-B*5701.
– Để tránh việc dùng lại viên nén abacavir, bệnh nhân có phản ứng quá mẫn phải được yêu cầu trả lại thuốc chưa dùng hết abacavir dạng viên nén, hay dạng dung dịch dùng theo đường uống.
– Bệnh nhân ngưng điều trị bằng viên nén abacavir vì bất kỳ lý do gì, đặc biệt do các phản ứng bất lợi hoặc biểu hiện ốm, đều phải hỏi ý kiến của bác sĩ trước khi dùng thuốc trở lại.
– Bệnh nhân cần phải được khuyến cáo đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng. Một điều quan trọng là bệnh nhân phải luôn giữ “Thẻ cảnh báo – Alert Card” đóng gói kèm theo chế phẩm, bên mình mọi lúc mọi nơi.
Nhiễm acid lactic: thường liên quan với gan to và gan nhiễm mỡ đã được ghi nhận ở các bệnh nhân dùng chất đồng đẳng nucleosid. Những triệu chứng ban đầu (acid lactic trong máu cao) bao gồm các triệu chứng rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng), mệt mỏi không rõ nguyên nhân, chán ăn, giảm cân, các triệu chứng hô hấp (thở nhanh và/hoặc thở sâu) hoặc những triệu chứng thần kinh (gồm cả suy giảm vận động).
Nhiễm toan lactic gây tử vong cao và có thể liên quan với viêm tụy, suy gan hoặc suy thận.
Nhiễm toan lactic nói chung xảy ra sau một vài tháng điều trị.
Nên ngừng điều trị với các đồng đẳng nucleosid nếu acid lactic trong máu cao có biểu hiện triệu chứng, nhiễm toan lactic/chuyển hóa, gan to tiến triển, hoặc nồng độ aminotransferase tăng nhanh.
Nên thận trọng khi dùng các đồng đẳng nucleosid cho bất kỳ bệnh nhân nào (đặc biệt phụ nữ bị béo phì) bị gan to, viêm gan hoặc có những yếu tố nguy cơ đã biết khác của bệnh gan và gan nhiễm mỡ (như dùng một vài loại thuốc hoặc uống rượu). Bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan C và đang được điều trị bằng alpha interferon và ribavirin có thể có nguy cơ đặc biệt.
Bệnh nhân có nguy cơ cao nên được theo dõi chặt chẽ.
Rối loạn chức năng ty thể: các đồng đẳng nucleotid và nucleosid đã được chứng minh in vitro và in vivo gây hủy hoại ty thể ở các mức độ khác nhau. Rối loạn chức nang ty thé đã được xác nhận ở trẻ em âm tính HIV (-) đã bị phơi nhiễm trong bào thai và/hoặc sau khi sinh với các đồng đẳng nucleosid và nucleotid. Các phản ứng không mong muốn ghi nhận được gồm có rối loạn hệ tuần hoàn (như thiếu máu, giảm bạch cầu trung tính), rối loạn chuyển hóa (tăng acid lactic huyết, tăng lipid huyết). Các triệu chứng này thường là thoáng qua, ngoài ra, còn ghi nhận được một số rối loạn về thần kinh khởi phát muộn như tăng trương lực cơ, co giật, rối loạn hành vi). Các rối loạn về thần kinh là thoáng qua hay vĩnh viễn hiện chưa rõ, do đó bất kỳ thai nhi nào trong bụng mẹ bị phơi nhiễm với các đồng đẳng của nueleosid và nueleotid, ngay cả với trẻ được xác định là âm tính với HIV nên được theo dõi lâm sàng và làm các xét nghiệm cần thiết và cần được kiểm tra đầy đủ về khả năng bị rối loạn chức năng ty thể khi có những dấu hiệu hoặc triệu chứng liên quan. Những khám phá này không ảnh hưởng đến khuyến cáo điều trị kháng retrovirut hiện hành ở phụ nữ mang thai để ngăn chặn sự lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Loạn dưỡng mỡ: Phác đồ phối hợp kháng retrovirut có liên quan đến sự tái phân bố mỡ trong cơ thể (loạn dưỡng mỡ) ở bệnh nhân HIV. Hậu quả lâu dài của rối loạn này hiện vẫn chưa được biết. Sự hiểu biết về cơ chế này vẫn chưa đầy đủ. Sự liên quan giữa u mỡ nội tạng và các chất ức chế protease (PI) và teo mỡ với chất ức chế enzyme phiên mã ngược nucleosid (NRTI) vẫn chỉ là giả thuyết. Nguy cơ loạn dưỡng mỡ tăng cao có liên quan đến yếu tố cá thể như: tuổi cao, liên quan đến thuốc như: khoảng thời gian dùng thuốc kháng retrovirut kéo dài, và những rối loạn chuyển hóa kèm theo. Thăm khám lâm sàng nên bao gồm cả những đánh giá về dấu hiệu thực thể phân phối lại mỡ trong cơ thể. Nên xem xét xét nghiệm nồng độ đường và mỡ máu khi đói. Những rối loạn dưỡng mỡ nên được kiểm soát theo dấu hiệu lâm sàng (xem mục tác dụng không mong muốn).
Viêm tụy: đã có ghi nhận về trường hợp có bệnh nhân viêm tụy, nhưng nguyên nhân gây viêm tụy có phải do abacavir hay không thì hiện nay vẫn chưa rõ ràng.
Phác đồ kết hợp ba nucleosid: trên bệnh nhân có tải lượng virut cao (>100.000 bản/ml), cần xem xét tới khả năng sử dụng liệu pháp kết hợp ba hoạt chất abacavir, lamivudin và zidovudin (xem trong phần Dược lực học).
Đã có ghi nhận về kháng thuốc và thất bại khi điều trị kháng virut với tỷ lệ cao ở giai đoạn đầu khi điều trị bằng abacavir kết hợp với tenofovir disoproxil fumarat và lamivudin 1 lần/ngày.
Bệnh gan: Nghiên cứu độ an toàn và hiệu quả của viên nén abacavir chưa được thiết lập đối với bệnh-nhân rôi loạn chức năng gan. Chống chỉ định viên nén abacavir đối với bệnh nhân suy gan nặng (xem mục chống chỉ định).
Bệnh nhân có tiền sử rối loạn chức năng gan, bao gồm cả viêm gan mạn tính, thường xảy ra những bất thường về chức năng gan hơn khi dùng liệu pháp kết hợp kháng retrovirut, và nên được theo dõi trong quá trình điều trị bệnh. Nếu có dấu hiệu bệnh gan nặng thêm ở những bệnh nhân đó, nên xem xét việc tạm dừng hoặc ngừng điều trị.
Đã có một nghiên cứu dược động học ở bệnh nhân có tổn thương gan nhẹ. Tuy nhiên, cũng không thể đưa ra khuyến cáo xác định về giảm liều bởi vì nồng độ thuốc ở bệnh nhân khác nhau đáng kể trong nhóm bệnh nhân này (xem mục dược động học). Dữ liệu về tính an toàn của abacavir trên bệnh nhân suy gan còn rất hạn chế. Do có thể gia tăng nồng độ tiềm ẩn (AUC) trên một số bệnh nhân, nên yêu cầu phải theo dõi chặt chẽ các bệnh nhân này. Không có dữ liệu về tính an toàn của thuốc trên bệnh nhân suy gan mức độ vừa và nặng. Dự đoán là nồng độ abacavir huyết tương tăng đáng kể ở những bệnh nhân này. Bởi vậy, không khuyến cáo sử dụng abacavir trên bệnh nhân suy giảm chức năng gan mức độ vừa trừ trường hợp thật cần thiết và yêu cầu phải theo dõi chặt chẽ ở những bệnh nhân này. Chống chỉ định dùng viên nén abacavir trên các bệnh nhân suy giảm chức năng gan nặng.
Bệnh nhân viêm gan B hoặc C cấp tính: Đôi với bệnh nhân viêm gan B hoặc C cấp tính và điều trị kết hợp thuốc kháng retrovirut sẽ làm tăng nguy cơ phản ứng bất lợi ở gan nặng hoặc có thể gây tử vong. Trường hợp sử dụng phác đồ điều trị kháng virut đồng thời cho bệnh nhân viên viêm gan B hoặc C, cần tham khảo thêm thông tin về các thuốc này.
Thận trọng khi dùng kết hợp abacavir và ribavirin (xem mục Tương tác của thuốc với các thuốc khác và các loại tương tác khác).
Bệnh thận: Không nên điều trị abacavir đối với bệnh nhân bị bệnh thận ở giai đoạn cuối (xem mục Đặc tính dược động học).
Hội chứng hoạt hóa lại miễn dịch: Ở các bệnh nhân bị lây nhiễm HIV có suy giảm miễn dịch nặng tại thời điểm bắt đầu một liệu pháp kháng retrovirut kết hợp (CART), một phản ứng viêm nhiễm với các mầm bệnh không biểu hiện thành triệu chứng hoặc các mầm bệnh cơ hội tồn lưu có thể phát sinh và gây ra các tình trạng lâm sàng nghiêm trọng hoặc làm trầm trọng hơn các triệu chứng bệnh. Thông thường, những phản ứng như vậy có thể nhận thấy trong vòng vài tuần hoặc tháng bắt đầu CART. Các ví dụ điển hình là bệnh viêm võng mạc do cytomegalovirut, nhiễm lao tổng thể và/hoặc khu trú và viêm phổi do Pneumocystis carinii.
Bất kỳ triệu chứng viêm nhiễm nào cũng phải được đánh giá và bắt đầu điều trị ngay khi cần thiết. Trong trường hợp hoạt hóa lại miễn dịch đã ghi nhận có biểu hiện rối loạn bệnh tự miễn (như bệnh Graves); tuy nhiên, thời gian khởi phát thì có thể đa dạng và có thể xuất hiện rối loạn này sau nhiều tháng bắt đầu điều trị.
Hoại tử xương: Mặc dù được xem là do nhiều nguyên nhân (bao gồm sử dụng corticosteroid, uống rượu, ức chế miễn dịch nặng, chỉ số khối lượng cơ thể cao hơn), đã ghi nhận trường hợp bị hoại tử xương trên một số bệnh nhân nhiễm HIV tiến triển và/hoặc điều trị lâu dài liệu pháp kết hợp thuốc kháng retrovirut (CART). Bệnh nhân cần đi khám bác sĩ nếu bị đau và nhức khớp, cứng khớp hoặc gặp khó khăn khi di chuyền.
Nhiễm khuẩn cơ hội: Bệnh nhân được điều trị với viên nén abacavir hoặc bất kỳ một liệu pháp kháng retrovirut nào khác, vẫn có thể bị nhiễm khuẩn cơ hội và các biến chứng khác của nhiễm HIV. Do vậy, các bệnh nhân cần được các bác sỹ có kinh nghiệm trong điều trị các bệnh có liên quan HIV theo dõi chặt chẽ trên mặt lâm sàng.
Truyền nhiễm: Bệnh nhân nhiễm HIV cần được tư vấn rõ rằng liệu pháp kháng retrovirut hiện nay kể cả dùng viên nén abacavir cũng không cho thấy khả năng phòng ngừa rủi ro lây nhiễm HIV qua đường quan hệ tình dục hoặc qua đường máu. Do đó, vẫn cần tiếp tục có những biện pháp phòng tránh rủi ro truyền nhiễm HIV thích hợp.
Nhồi máu cơ tim: Các nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa bệnh nhồi máu cơ tim và việc dùng abacavir. Nghiên cứu này chủ yếu trên bệnh nhân đã điều trị thuốc kháng retrovirut. Số liệu thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy số lượng hạn chế bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và không thể loại trừ có tăng nhẹ nguy cơ này. Nói chung, số liệu thu thập được trong nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân và thử nghiệm chọn ngẫu nhiên không khẳng định cũng như không bác bỏ là nhồi máu cơ tim có liên quan tới việc điều trị bằng abacavir. Cho tới nay, vẫn chưa xác định được cơ chế sinh học để giải thích nguy cơ gia tăng tiềm ẩn này. Khi điều trị bằng viên nén abacavir, cần có biện pháp giảm thiểu tất cả các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được (như hút thuốc, huyết áp cao và tăng lipid máu).
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.
Chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc.
4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:
Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: B3
US FDA pregnancy category: NA
Thời kỳ mang thai:
Không khuyến cáo sử dụng viên nén abacavir trong thời kỳ mang thai. Độ an toàn của abacavir cho phụ nữ mang thai vẫn chưa được xác định. Sự truyền abacavir và/hoặc các chất chuyển hóa liên quan qua nhau thai là có xảy ra trên động vật. Độc tính đối với sự phát triển của phôi thai là có xảy ra ở chuột, nhưng không xảy ra với thỏ (xem mục các số liệu an toàn tiền lâm sàng). Nguy cơ gây quái thai của abacavir chưa được xác định qua những nghiên cứu trên động vật.
Thời kỳ cho con bú:
Abacavir và các chất chuyển hóa có liên quan của abacavir có bài tiết trong sữa của chuột đang cho con bú. Do đó, có thể cho rằng thuốc cũng sẽ bài tiết qua sữa mẹ mặc dù chưa có tài liệu chứng minh khẳng định điều này. Không có dữ liệu về tính an toàn của abacavir khi dùng cho trẻ dưới ba tháng tuổi. Do đó, không khuyến cáo các bà mẹ cho con bú khi đang điều trị bằng abacavir. Ngoài ra, phụ nữ nhiễm HIV không được phép nuôi con bằng sữa mẹ trong bất kỳ trường hợp nào để tránh lây truyền HIV.
4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):
Quá mẫn: xem mục Thận trọng khi dùng thuốc
Trong nghiên cứu lâm sàng cho thấy 3,4% bệnh nhân âm tính alen HLA-B*5701 điều trị bằng abacavir có phản ứng quá mẫn với thuốc. Tỷ lệ xuất hiện phản ứng quá mẫn được báo cáo trong nghiên cứu lâm sàng là như nhau khi dùng viên nén abacavir 600mg 1 lần/ngày và 300mg 2 lần/ngày.
Một vài phản ứng quá mẫn đe dọa tới tính mạng và gây tử vong mặc dù đã có biện pháp cẩn trọng. Phản ứng này đặc trưng ở chỗ sự xuất hiện những triệu chứng liên quan đến nhiều cơ quan trong cơ thể.
Hầu hết bệnh nhân có phản ứng quá mẫn sẽ bị sốt và/hoặc phát ban (thường là ban sát sần hoặc nổi mày đay) như một phần của hội chứng, tuy nhiên có những phản ứng mà không phát ban hay sốt.
Các dấu hiệu và triệu chứng của phản ứng quá mẫn được liệt kê như dưới đây. Các dấu hiệu và triệu chứng này được nhận thấy trong các nghiên cứu lâm sàng hoặc trong giám sát hậu kiểm. Những dấu hiệu và triệu chứng được in đậm xuất hiện ở ít nhất 10% các bệnh nhân có phản ứng quá mẫn.
Phát ban (81% so với 67%) và những biểu hiện trên tiêu hóa (70% so với 54%) là những số liệu ghi nhận tương ứng ở trẻ em so với người trưởng thành.
Ban đầu trên một số bệnh nhân có biểu hiện quá mẫn lại tưởng rằng đó là biểu hiện của viêm loét dạ dày, hay các bệnh về hô hấp (viêm phổi, viêm phế quản, viêm họng) hoặc giống như bị cảm cúm. Sự chậm trễ khi chẩn đoán các phản ứng quá mẫn có thê dẫn tới kết quả là tiếp tục sử dụng viên nén abacavir hoặc tái sử dụng lại, điều này sẽ dẫn tới phản ứng quá mẫn trở nên nặng hơn thậm chí dẫn tới tử vong. Bởi vậy, việc chẩn đoán các phản ứng quá mẫn phải cực kỳ cẩn thận trên những bệnh nhân có biểu hiện những triệu chứng này.
Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 6 tuần đầu tiên (thời gian khởi phát trung bình là 11 ngày), mặc dù những phản ứng này có thể xảy ra vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình điều trị. Cần phải theo dõi chặt chẽ các bệnh nhân trong 2 tháng đầu, cứ 2 tuần đi khám bác sỹ 1 lần.
Có thể là việc điều trị ngắt quãng có thể gia tăng nguy cơ phát triển tính quá mẫn, từ đó gia tăng xuất hiện các phản ứng quá mẫn có ý nghĩa trên lâm sàng. Do vậy, phải khuyến cáo các bệnh nhân về tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc thường xuyên.
Việc sử dụng trở lại abacavir sau một phản ứng quá mẫn sẽ dẫn đến xuất hiện trở lại nhanh chóng các triệu chứng trong vòng một vài giờ. Sự xuất hiện trở lại các triệu chứng này thường nghiêm trọng hơn biểu hiện ban đầu, có thể đe dọa tính mạng và dẫn đến tử vong.
Để tránh trì hoãn trong việc chẩn đoán, và giảm thiểu nguy cơ phản ứng quá mẫn đe dọa tính mạng, ngưng sử dụng viên nén abacavir vĩnh viễn nếu không loại trừ được phản ứng quá mẫn này, thậm chí cả khi các chẩn đoán khác là có thể (bệnh về đường hô hấp, bệnh giống như cảm cúm, bệnh viêm loét dạ dày hoặc các phản ứng đối với các liệu pháp điều trị khác).
Các phản ứng quá mẫn xuất hiện dồn dập ngay từ đầu, kế cả các phản ứng đe dọa tới tính mạng xảy ra sau khi sử dụng trở lại thuốc này ở các bệnh nhân chỉ biểu hiện một trong số các triệu chứng chính của phản ứng quá mẫn (như phát ban, sốt, viêm loét dạ dày, các dấu hiệu cấp tính hoặc mạn tính như hôn mê và tình trạng mệt xỉu), trước khi ngừng sử dụng viên nén abacavir. Triệu chứng tách biệt hay gặp nhất của phản ứng quá mẫn là phát ban. Ngoài ra, rất hiếm gặp các phản ứng quá mẫn ở các bệnh nhân sử dụng trở lại thuốc này, và mà trước đó không hề có các triệu chứng của phản ứng quá mẫn. Trong cả hai trường hợp, nếu quyết định phải sử dụng lại thuốc này thì phải sử dụng trong hoàn cảnh sẵn sàng có hỗ trợ y tế.
Mỗi bệnh nhân đều phải được cảnh báo về biểu hiện quá mẫn với abacavir.
Trong phần lớn tác dụng không mong muốn khác đã được ghi nhận, hiện chưa rõ là có liên quan tới abacavir hay do việc sử dụng nhiều loại thuốc để điều trị nhiễm HIV hoặc là do hậu quả tiến triển của bệnh.
Nhiều triệu chứng trong số các triệu chứng được liệt kê dưới đây là hay gặp (buồn nôn, nôn, tiêu chảy, sốt, hôn mê, phát ban) ở các bệnh nhân mẫn cảm với abacavir. Bởi vậy, bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng nào trong số các triệu chứng này cần phải được đánh giá cẩn thận xem có phản ứng quá mẫn hay không. Nếu như ngừng sử dụng viên nén abacavir ở bệnh nhân do xuất hiện một trong các triệu chứng nêu trên và sau đó lại quyết định sử dụng thuốc có chứa abacavir, thì phải sử dụng trong hoàn cảnh có sẵn sàng hỗ trợ y tế cho bệnh nhân (xem mục Thận trọng khi dùng thuốc). Các phản ứng quá mẫn hiếm gặp như hội chứng ban đỏ đa dạng, hay hội chứng Steven Johnson hay hoại tử biểu bì nhiễm độc khi dùng abacavir, trong các trường hợp này không thể loại trừ phản ứng quá mẫn. Trong những trường hợp này, thông thường phải ngừng sử dụng vĩnh viễn những thuốc có chứa abacavir.
Có rất nhiều phản ứng bất lợi không gây hạn chế việc điều trị. Tần xuất gặp phải được chia ra theo mức độ: rất hay gặp (>1/10), hay gặp (>1/100 đến <1/10), không hay gặp (>1/1000 đến <1/100); hiếm gặp (>1/10000 đến 1<1000), rất hiếm gặp (<1/10000)
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng:
Hay gặp : Chán ăn
Rối loạn hệ thần kinh:
Hay gặp : Đau đầu
Rối loạn dạ dày – ruột
Hay gặp : Buồn nôn, nôn, tiêu chảy
Hiếm gặp: Viêm tụy
Rối loạn về da và mô dưới da
Hay gặp : Phát ban (không có triệu chứng toàn thân)
Rất hiếm gặp : Hội chứng ban đỏ đa dạng hay hội chứng Steven Johnson và hoại tử biểu bì nhiễm độc
Rối loạn nói chung
Hay gặp: Sốt, hôn mê, suy nhược
Những trường hợp nhiễm toan lactic, đôi khi tử vong, thường liên quan đến gan to và bệnh gan nhiễm mỡ nặng, đã được ghi nhận khi dùng các thuốc đồng đẳng nucleosid (xem mục Thận trọng khi dùng thuốc).
Liệu pháp kháng retrovirut kết hợp có liên quan đến sự tái phân bố mỡ cơ thể (loạn dưỡng mỡ) ở bệnh nhân HIV bao gồm mất lớp mỡ dưới da mặt và da tay chân, tăng mỡ bụng và mỡ nội tạng, phì đại ngực và tích tụ mỡ cổ và gáy (bướu trâu).
Liệu pháp kháng retrovirut kết hợp có liên quan với các bất thường chuyển hóa như tăng đường máu, tăng cholesterol máu, kháng insulin, tăng đường huyết và tăng acid lactic máu (xem mục Thận trọng khi dùng thuốc).
Ở các bệnh nhân bị lây nhiễm HIV có suy giảm miễn dịch nặng tại thời điểm bắt đầu một liệu pháp kháng retrovirut kết hợp (CART), một phản ứng viêm nhiễm với các mầm bệnh không biểu hiện thành triệu chứng hoặc các mầm bệnh cơ hội tồn lưu có thể phát sinh và gây ra các tình trạng lâm sàng nghiêm trọng hoặc làm trầm trọng hơn các triệu chứng bệnh. Đã ghi nhận có rối loạn tự miễn (như bệnh Graves) trong trường hợp hoạt hoá lại miễn dịch; tuy nhiên, thời điểm khởi phát được ghi nhận rất khác nhau và các rối loạn này có thể xuất hiện vài tháng sau khi bắt đầu điều trị (xem mục Thận trọng khi dùng thuốc).
Đã ghi nhận một số trường hợp hoại tử xương, đặc biệt ở bệnh nhân có các yếu tố các nguy cơ đã được thừa nhận rộng rãi, như HIV tiến triển hoặc sử dụng liệu pháp kháng retrovirut kết hợp (CART) kéo dài. Chưa rõ tần suất xuất hiện trường hợp này (xem mục Thận trọng khi dùng thuốc).
Những bất thường xét nghiệm:
Trong các nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát, những bất thường xét nghiệm có liên quan điều trị bằng viên nén abacavir là không hay gặp, không có sự khác nhau về tỷ lệ nhận thấy giữa nhóm bệnh nhân điều trị bằng viên nén abacavir và nhóm đối chứng.
Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Quá mẫn với thuốc: Do phản ứng quá mẫn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, cần theo dõi và thăm khám 2 tuần một lần trong 2 tháng đầu. Ngừng thuốc ngay nếu có triệu chứng quá mẫn hoặc nghi ngờ có quá mẫn và không được dùng lại nếu đã phải ngừng thuốc do quá mẫn (vì lần sau phản ứng quá mẫn sẽ nặng hơn). Cần chú ý đến triệu chứng hay gặp là da nổi mẩn. Nếu bắt buộc phải dùng lại abacavir sau khi ngừng thuốc mà chắc chắn không phải do quá mẫn thì người bệnh phải được điều trị và theo dõi tại bệnh viện có đủ phương tiện cấp cứu hồi sức. Phải thận trọng khi dùng đồng thời các thuốc độc với da. Hướng dẫn bệnh nhân uống thuốc đều, nhận biết các triệu chứng quá mẫn và thông báo cho thầy thuốc ngay khi bắt đầu dùng lại thuốc hoặc khi có triệu chứng.
Bị nhiễm acid lactic huyết: Tạm ngừng hoặc ngừng hẳn dùng abacavir nếu thấy men gan tăng nhanh, gan to, toan huyết không rõ nguyên nhân. Chú ý đến các triệu chứng tiêu hóa tưởng như không quan trọng (nôn, buồn nôn, đau bụng, các triệu chứng hô hấp và thần kinh) chức năng gan bị giảm, gan bị nhiễm mỡ, gan to dần hoặc bị nhiễm acid lactic.
4.8 Tương tác với các thuốc khác:
Dựa trên kết quả thực nghiệm in vitro và con đường chuyển hóa chính đã biết của abacavir, nguy cơ có tương tác qua trung gian P450 với các thuốc khác có liên quan đến abacavir là thấp. P450 không đóng vai trò chính trong chuyển hóa của abacavir, và abacavir không ức chế chuyển hóa qua trung gian CYP 3A4. Abacavir cũng được chứng minh trên in vitro là không ức chế các enzym CYP 3A4, CYP2C9 hoặc CYP2D6 ở bất cứ nồng độ nào thích hợp trên lâm sàng. Không nhận thấy có cảm ứng chuyển hóa qua gan trong các nghiên cứu lâm sàng. Do đó, có rất ít nguy cơ có tương tác với các thuốc ức chế protease (PI) kháng retrovirut và các thuốc khác được chuyển hóa chủ yếu bằng P540. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy không có sự tương tác có ý nghĩa lâm sàng giữa abacavir, zidovudin và lamivudin.
Những thuốc gây cảm ứng enzym mạnh như rifampicin, phenobarbital và phenytoin có thể thông qua tác dụng của chúng lên các UDP-glucoronyl tranferase làm giảm nhẹ nồng độ của abacavir huyết tương.
Rượu (Etanol): Sử dụng đồng thời rượu với acabavir làm tăng AUC của abacavir lên khoảng 41%. Tuy nhiên, điều này không được coi là có ý nghĩa lâm sàng. Abacavir không ảnh hưởng tới chuyển hóa của rượu.
Methadon: Trong nghiên cứu về dược động học, sử dụng đồng thời abacavir 600mg 2 lần/ngày với methadon cho thấy Cmax của acabavir giảm 35% và tmax kéo dài thêm 1 giờ, nhưng AUC thì không thay đổi. Sự thay đổi về mặt dược động học của abacavir không được coi là có ý nghĩa lâm sàng. Trong nghiên cứu này, abacavir làm tăng độ thanh thải toàn thân trung bình của methadon lên 22%. Vì vậy, không thể loại trừ khả năng gây cảm ứng các enzym chuyển hóa thuốc. Những bệnh nhân điều trị bằng methadon và abacavir cần được theo dõi dấu hiệu triệu chứng cai thuốc, các dấu hiệu này sẽ cho biết là liều điều trị không đủ và đôi khi có thể cần chuẩn lại liều methadon.
Các retinoid: Các hợp chất retinoid được thải trừ thông qua alcol-dehydrogenase. Tương tác với abacavir là có thể nhưng chưa được nghiên cứu.
Ribavirin: do abacavir và ribavirin có cùng con đường phosphoryl hoá, do đó, giả định có tương tác nội bào của hai thuốc này, tương tác này có thể dẫn đến giảm các chất chuyển hóa được phosphoryl hoá nội bào của ribavirin, và hậu quả sẽ là làm giảm khả năng có mức đáp ứng virut (SVR) kéo dài đối với các bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan C (HCV) được điều trị bằng infereron được PEG hoá + RBV. Đã được ghi nhận các phát hiện trái ngược nhau trong các tài liệu về sử dụng đồng thời abacavir và ribavirin. Một số dữ liệu cho thấy bệnh nhân bị nhiễm đồng thời HIV và HCV điều trị bằng ART bao gồm abacavir có nguy cơ có tỷ lệ đáp ứng thấp hơn với interferon được PEG hoá/ribavirin. Cần thận trọng khi sử dụng đồng thời cả hai thuốc này.
4.9 Quá liều và xử trí:
Các liều duy nhất của abacavir lên tới 1200 mg và các liều hàng ngày lên tới 1800 mg đều đã được dùng cho bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng. Không ghi nhận thấy bất kỳ một phản ứng bất lợi nào ngoài dự đoán. Tác động của việc dùng liều cao hiện nay vẫn chưa rõ.
Nếu bệnh nhân sử dụng quá liều thì cần phải theo dõi dấu hiệu ngộ độc (xem mục Tác dụng không mong muốn) và áp dụng liệu pháp mang tính hỗ trợ tiêu chuẩn nếu cần thiết. Hiện vẫn chưa biết liệu abacavir có thể bị thải loại bằng cách thẩm tách màng bụng hay thẩm phân lọc máu.
5. Cơ chế tác dụng của thuốc :
5.1. Dược lực học:
Nhóm dược lý điều trị: Chất ức chế enzym phiên mã ngược nucleosid, mã ATC: J05AF06
Abacavir là một chất ức chế enzym phiên mã ngược nucleosid (NRTI). Thuốc là một chất ức chế chọn lọc mạnh HIV-1 và HIV-2, kể cả chủng phân lập HIV-1 kém nhạy cảm với zidovudin, lamivudin, zalcitabin, didanosin hoặc nevirapin. Abacavir được chuyển hóa nội bào thành dạng có hoạt tính, carbovir 5’-triphosphat (TP). Các nghiên cứu in vitro đã chứng minh rằng cơ chế hoạt động của thuốc đối với HIV là ức chế enzym phiên mã ngược HIV, dẫn tới làm gián đoạn và kết thúc chu trình sao chép của virut. Kết hợp abacavir và nevirapin và zidovudin trên in vitro có tính hiệp đồng tác dụng. Abacavir cũng có tác dụng cộng hợp khi sử dụng kết hợp với didanosin, zalcitabin, lamivudin và stavudin.
Các thể phân lập HIV -1 kháng abacavir đã được chọn lọc in vitro và có liên quan tới sự thay đối kiểu hình gen đặc hiệu trong vùng mã hoá enzym phiên mã ngược (RT) (các đơn vị mã M184V, K65R, L74V và Y115F). Tính kháng abacavir của virut phát triển tương đối chậm in vitro và in vivo, cần có nhiều đột biến để đạt mức IC50 tăng 8 lần so với virut kiểu hoang, đây có thể là mức có ý nghĩa lâm sàng. Các thể phân lập kháng abacavir cũng thể hiện giảm nhạy cảm với lamivudin, zalcitabin và/hoặc didanosin, nhưng vẫn nhạy cảm với zidovudin và stavudin.
Tính kháng chéo giữa abacavir và các thuốc ức chế protease hoặc NNRTIs là không thể xảy ra. Sự giảm tính nhạy cảm với abacavir đã được chứng tỏ ở các thể phân lập trên lâm sàng từ bệnh nhân có sao chép virut không kiểm soát được, đó là các bệnh nhân đã được điều trị trước đó và đã kháng các thuốc ức chế nucleosid khác.
Các thể phân lập trên lâm sàng với 3 hoặc nhiều hơn các đột biến có liên quan tới NRTIs là không thể nhạy cảm với abacavir.
Cơ chế tác dụng:
Abacavir là một thuốc thuộc nhóm nucleosid có tác dụng như một chất ức chế enzym phiên mã ngược (NRTI), có tác dụng kháng chọn lọc retrovirus HIV-1 và HIV-2, kể cả các chủng HIV-1 kém nhạy cảm với zidovudin, lamivudin, zalcitabin, didanosin hoặc nevirapin. Khi vào cơ thể, abacavir được phosphoryl hóa bởi adenosin phosphotransferase và chuyển đổi thành carbovir triphosphat, một chất chuyển hóa có hoạt tính nhờ các enzym có trong tế bào. Do vậy, sự chuyển hóa của abacavir xảy ra trong cả các tế bào bị nhiễm virus và tế bào lành. Chất chuyển hóa carbovir triphosphat có cấu trúc tương tự dGTP (deoxyguanosin-5’- triphosphat) nên đã cạnh tranh với dGTP – một cơ chất của enzym phiên mã ngược của virus, và được gắn vào DNA của virus. Do cấu trúc của chất chuyển hóa thiếu nhóm 3’-OH nên không thể tạo liên kết 3’,5’-phosphodiester, làm mất khả năng kéo dài chuỗi DNA nên gây gián đoạn sự tăng trưởng của virus.
[XEM TẠI ĐÂY]
5.2. Dược động học:
Hấp thu: Abacavir được hấp thu tốt và nhanh chóng qua đường tiêu hóa. Sinh khả dụng đường uống của lamivudin ở người trưởng thành thường là 83%. Dùng theo đường uống, thì thời gian trung bình để đạt được nồng độ abacavir tối đa trong huyết thanh (tmax) là khoảng 1,5 giờ nếu dùng viên nén và khoảng 1 giờ nếu dùng dạng dung dịch.
Tại mức liều điều trị, liều 300mg 2 lần/ngày, thì Cmax và Cmin ở trạng thái ổn định của abacavir tương ứng xấp xỉ 3,00 µg/ml (30%) và 0,01 µg/ml (99%). Diện tích dưới đường cong AUC trung bình (CV) của liều trong khoảng 12 giờ là 6,02 µg.giờ/ml (29%), tương đương với AUC hàng ngày xấp xỉ 12,0 µg.giờ/ml. Giá trị Cmax của dung dịch uống thì cao hơn viên nén một chút. Sau khi dùng 600mg viên nén abacavir, thì Cmax trung bình của abacavir đạt xấp xỉ 4,26 µg/ml (28%) và AUC trung binh đạt 11,95 µg.giờ/ml (21%).
Thức ăn có thể cản trở quá trình hấp thu thuốc và làm giảm Cmax nhưng nói chung không làm ảnh hưởng tới nồng độ trong huyết tương (AUC). Bởi vậy, viên nén abacavir có thể dùng trước hoặc sau ăn đều được.
Dùng viên nén nghiền cùng với một lượng nhỏ thức ăn bán rắn hoặc lỏng không làm ảnh hưởng đến chất lượng thuốc, vì vậy, không làm thay đổi hiệu quả lâm sàng của thuốc. Kết luận này là dựa trên dữ liệu hóa lý và dược động học, giả định bệnh nhân nghiền nát và nghiền hết 100% viên nén và uống ngay lập tức.
Phân bố: Theo đường tiêm tĩnh mạch, thì thể tích phân bố biểu kiến khoảng 0,8 l/kg, giá trị này cho thấy abacavir thẩm thấu tự do vào các mô trong cơ thể.
Các nghiên cứu trên bệnh nhân nhiễm HIV cho thấy abacavir có tính thẩm thấu tốt vào dịch màng não (CSF), với tỷ lệ thẩm thấu vào dịch màng não và AUC huyết tương nằm trong khoảng từ 30% đến 44%. Giá trị nhận thấy của nồng độ đỉnh là cao hơn gấp 9 lần IC50, IC50 có giá trị là 0,08 µg/ml hoặc 0,26 µM khi sử dụng 600mg 2 lần/ngày.
Những nghiên cứu gắn kết protein huyết tương in vitro chỉ ra rằng abacavir chỉ gắn kết ở lượng nhỏ đến trung bình với protein huyết tương tại nồng độ điều trị ( 49%). Điều này cho thấy ít có khả năng tương tác với các thuốc khác do tranh chỗ gắn kết protein huyết tương.
Chuyển hóa: Abacavir được chuyển hóa chủ yếu tại gan với xấp xỉ 2% liều dùng, và được thải trừ nguyên vẹn qua thận. Ở người, con đường chuyển hóa chủ yếu là do alcohol dehydrogenase và glucuronic hóa để tạo ra acid 5’-carboxylic và 5’-glucoronid chiếm 66% liều đã dùng. Các chất chuyển hóa được thải trừ qua thận.
Thải trừ: Thời gian bán thải trung bình của abacavir là 1,5 giờ. Theo liều uống 300mg 2 lần/ngày thì abacavir không có tích lũy đáng kể. Sự thải trừ abacavir là qua chuyển hóa ở gan sau đó bài tiết chất chuyển hóa chủ yếu qua thận. Các chất chuyển hóa cùng với abacavir không biến đổi ở thận chiếm tới khoảng 83% lượng đã sử dụng trong nước tiểu. Phần còn lại được thải trừ qua phân.
Dược động học nội bào
Trong một nghiên cứu tiến hành trên 20 bệnh nhân bị nhiễm HIV, dùng 300mg abacavir 2 lần/ngày, với chỉ một liều 300mg được dùng trước khi lấy mẫu 24 giờ, thời gian bán thải nội bào carbovir-triphosphat (TP) ở trạng thái ổn định là 20,6 giờ so với thời gian bán thải trung bình của abacavir huyết tương trong nghiên cứu này là 2,6 giờ. Trong một nghiên cứu chéo trên 27 bệnh nhiễm HIV, nồng độ carbovir-TP là cao hơn ở phác đồ điều trị abacavir 600mg 1 lần/ngày (AUC24,ss + 32%, Cmax24,ss + 99% va Ctrough + 18%) so với điều trị abacavir 300mg 2 lần/ngày. Nói chung, nhưng dữ liệu cho thấy nếu dùng abacavir 600mg 1 lần/ngày để điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV. Hơn nữa, tính an toàn và hiệu quả của abacavir dùng 1 lần/ngày đã được chứng minh trong một nghiên cứu lâm sàng quan trọng (CNA30021- xem mục Các đặc tính dược lực học kinh nghiệm trên lâm sàng).
Những bệnh nhân đặc biệt:
Bệnh nhân suy giảm chức năng gan: Abacavir được chuyển hóa chủ yếu qua gan. Dược độc học của abacavir đã được nghiên cứu trên những bệnh nhân suy gan nhẹ (điểm đánh giá Child-Pugh 5-6) dùng liều duy nhất 600mg/ngày. Kết quả cho thấy AUC của abacavir tăng trung bình khoảng 1,89 lần [1,32; 2,70], và thời gian bán thải tăng 1,58 lần [1,22; 2,04].
Không khuyến cáo giảm liều trên bệnh nhân suy gan nhẹ do nồng độ abacavir thay đổi đáng kể.
Bệnh nhân suy giảm chức năng thận: Abacavir được chuyển hóa chủ yếu qua gan với khoảng 2% liều dùng được thải trừ nguyên vẹn qua thận. Dược động học của abacavir trên bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối là tương tự với các bệnh nhân có chức năng thận bình thường. Bởi vậy, không cần thiết phải giảm liều trên các bệnh nhân suy thận. Do dữ liệu còn hạn chế vì vậy nên tránh sử dụng viên nén abacavir trên những bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối.
Trẻ em: Theo các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trên trẻ em thì abacavir được hấp thu tốt và nhanh chóng qua đường uống ở dạng dung dịch cho trẻ em. Nhìn chung, các thông số về dược động học ở trẻ em là tương đương với người trưởng thành, có sự biến thiên nhiều về nồng độ huyết tương. Liều khuyến cáo cho trẻ em từ ba tháng đến 12 tuổi là 8mg/kg x 2 lần/ngày. Liều khuyến cáo này sẽ khiến cho khoảng nồng độ huyết tương của trẻ em lớn hơn một chút, đảm bảo rằng phần lớn trẻ sẽ đạt được nồng độ điều trị tương đương với 300mg x 2 lần/ngày ở người trưởng thành.
Chưa có đủ dữ liệu về tính an toàn để khuyến cáo việc sử dụng viên nén abacavir cho trẻ nhỏ dưới 3 tháng. Những dữ liệu còn hạn chế cho thấy liều 2mg/kg ở trẻ sơ sinh < 30 ngày tuổi sẽ có AUC lớn hơn so với liều 8 mg/kg dùng cho trẻ lớn hơn.
Người cao tuổi: Không nghiên cứu dược động học của abacavir trên những bệnh nhân > 65 tuổi.
5.3. Hiệu quả lâm sàng:
Các lợi ích của viên nén abacavir chủ yếu dựa trên kết quả nghiên cứu tiến hành trên các bệnh nhân người trưởng thành và chưa từng được điều trị và sử dụng liệu pháp dùng viên nén abacavir 300mg 2 lần/ngày kết hợp với zidovudin và lamivudin.
Liệu pháp dùng (300mg) 2 lần/ngày:
– Người trưởng thành chưa từng điều trị:
Trên bệnh nhân trưởng thành có điều trị bằng abacavir trong liệu pháp kết hợp với lamivudin và zidovudin, tỷ lệ bệnh nhân mà không thể phát hiện tải lượng virut (<400 ban sao/ml) chiếm xấp xỉ 70% (phân tích theo chủ định điều trị trong 48 tuần) với sự tăng tương ứng các tế bào CD4.
Một nghiên cứu trên lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm chứng bằng giả dược thực hiện trên người trưởng thành. Nghiên cứu này so sánh hai liệu pháp kết hợp giữa abacavir, lamivudin và zidovudin với liệu pháp kết hợp indinavir, lamivudin và zidovudin. Do số bệnh nhân phải ngưng dùng thuốc sớm chiếm tỷ lệ cao (42% số bệnh nhân phải ngưng dùng thuốc trước tuần thứ 48), không thể đưa ra một kết luận xác định về tính tương đương của các liệu pháp điều trị cho tới tuần thứ 48. Mặc dù nhận thấy hiệu quả kháng virut là tương tự nhau giữa hai liệu pháp dùng abacavir và indinavir xét về tỷ lệ số bệnh nhân không phát hiện thấy tải lượng virut (<400 bản sao/ml); các phân tích theo chủ định điều trị (TT): 47% và 49%, các phân tích điều trị (AT): 86% và 94% tương ứng cho liệu pháp phối hợp abacavir và indinavir, kết quả thiên về liệu pháp phối hợp indinavir, đặc biệt là ở một nhóm nhỏ các bệnh nhân có tải lượng virut cao (>100.000 bản sao/ml ở mức cơ sở; ITT: 46% so với 55%, AT: 84% so với 93% tương ứng cho liệu pháp abacavir và indinavir).
Trong một nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, có kiểm chứng (CNA30024), 654 bệnh nhân nhiễm HIV chưa từng được điều trị thuốc kháng retrovirut, được cho sử dụng ngẫu nhiên abacavir 300mg 2 lần/ngày hoặc zidovudin 300mg 2 lần/ngày, cả hai liệu trình điều trị đều kết hợp với lamivudin 150mg 2 lần/ngày và efavirenz 600mg 1 lần/ngày. Thời gian điều trị mù đôi ít nhất là 48 tuần. Trong nhóm bệnh nhân theo chủ định điều trị ITT, thì 70% bệnh nhân ở nhóm dùng abacavir, so với 69% ở nhóm zidovudin, đạt được mức đáp ứng virut ARN của HIV-1 huyết tương < 50 bản sao/ml ở tuần thứ 48 (điểm ước tính sự khác biệt trong điều trị: 0,8, 95% CI – 6,3, 7,9). Trong các phân tích điều trị (AT), tính khác biệt giữa hai nhóm điều trị là đáng kể (88% tổng số bệnh nhân trong nhóm abacavir, so với 95% tông số bệnh nhân trong nhóm zidovudin (điểm ước tính sự khác biệt trong điều tri: -6,8, 95% CI -11,8, – 1,7).
Dù sao, cả hai phân tích đều phù hợp với kết luận về tính không thấp hơn trong cả hai nhánh điều trị.
– Trẻ em chưa từng điều trị:
Trong một nghiên cứu so sánh các liệu pháp kết hợp thuốc ức chế enzym phiên mã ngược NRTI không mù (có hoặc không có mù nelfinavir) ở trẻ em, một tỉ lệ lớn hơn trẻ em được điều trị với abacavir và lamivudin (71%) hoặc abacavir và zidovudin (60%) có ARN HIV-1 <400 bản sao/ml ở tuần thứ 48 tuần, so với những bệnh nhân được điều trị bằng lamivudin và zidovudin (47%) [p=0,09, ITT]. Một cách tương tự, một tỷ lệ lớn hơn ở trẻ em được điều trị bằng liệu pháp phối hợp dùng abacavir có ARN HIV-1 với tải lượng virut 50 bản sao/ml tại tuần thứ 48 tuần (tương ứng là 53%, 42% và 28%, p=0,07).
– Các bệnh nhân đã từng điều trị:
Trên những bệnh nhân trưởng thành đã bị phơi nhiễm một tỷ lệ vừa phải với liệu pháp kháng retrovirut, thì việc phối hợp thêm abacavir vào liệu pháp phối hợp kháng retrovirut sẽ cho bệnh nhân những lợi ích khiêm tốn giảm lượng tải virut (thay đổi trung bình 0,44 log10 /ml ở tuần thứ 16).
Trên những bệnh nhân trước đó đã được điều trị NRTI cấp tập, thì tác dụng của abacavir là rất thấp. Mức hiệu quả như là một phần của liệu pháp phối hợp mới sẽ phụ thuộc vào bản chất cũng như khoảng thời gian của liệu pháp trước đó mà có thể đã được lựa chọn cho các biến thể-1 HIV có tính kháng chéo abacavir.
Dùng 600mg x 1 lần/ngày:
– Người trưởng thành chưa từng được điều trị:
Liệu pháp dùng abacavir 1 lần/ngày được chứng tỏ trong một nghiên cứu có kiểm soát, mù đôi, đa trung tâm trong vòng 48 tuần (CNA30021) trên tổng số 770 bệnh nhân bị lây nhiễm HIV-1 mà trước đó chưa từng được điều trị. Những bệnh nhân này chủ yếu là bệnh nhân nhiễm HIV chưa biểu hiện triệu chứng (giai đoạn A CDC). Những bệnh nhân này được chọn ngẫu nhiên cho điều trị với abacavir 600mg 1 lần/ngày hoặc 300mg 2 lần/ngày, kết hợp với efavirenz và lamivudin 1 lần/ngày. Nhận thấy sự thành công trên lâm sàng là tương tự nhau trên cả hai nhóm (điểm đánh giá sự khác biệt trong điều trị -1,7, 95% CI – 8,4, 4,9). Từ những kết quả này, có thể đi tới kết luận với độ tin cậy 95%, sự khác biệt thực sự không > 8,4% thiên về nhóm dùng liệu pháp 2 lần/ngày. Sự khác biệt tiềm ẩn này là đủ nhỏ để có kết luận chung là liệu pháp abacavir 1 ngày/lần không kém hơn so với liệu pháp 2 lần/ngày
Có một tỷ lệ thất bại về tải lượng virut, mức độ thấp (tải lượng virut > 50 bản/ml) tương tự ở cả hai nhóm điều trị 1 lần/ngày và 2 lần/ngày (tương ứng là 10 % và 8%). Trong một cỡ mẫu nhỏ hơn để phân tích kiểu hình gen, thì thấy có một khuynh hướng là tỷ lệ các đột biến có liên quan đến-NRTI trong nhóm dùng 1 lần/ngày cao hơn là trong nhóm dùng 2 lần/ngày. Không thể đưa ra một kết luận khẳng định do dữ liệu từ nghiên cứu này còn hạn chế. Dữ liệu mang tính lâu dài của abacavir dùng 1 lần/ngày (> 48 tuần) hiện vẫn còn hạn chế.
– Các bệnh nhân đã từng điều trị
Trong nghiên cứu CAL30001, 182 bệnh nhân đã từng điều trị nhưng thất bại về tải lượng virut, được chọn ngẫu nhiên sử dụng liệu pháp kết hợp liều abacavir/lamivudin (FDC) 1 lần/ngày hoặc abacavir 300mg 2 lần/ngày + lamivudin 300mg 1 lần/ngày, cả hai liệu pháp đều phối hợp với tenofovir và một PI hoặc một NNRTI trong vòng 48 tuần. Dữ liệu ban đầu thu được tại 24 tuần chỉ ra rằng nhóm FDC không thua kém so với nhóm dùng abacavir 2 lần/ngày, dựa trên sự giảm tương tự ARN HIV-1 được xác định theo diện tích trung bình dưới đường cong trừ đi mức cơ sở (AAUCMB, -l,6 so với – 1,8 tương ứng, 95% CI – 0,06, 0,37) giữa hai nhóm. Tỷ lệ bệnh nhân có ARN HIV-1 < 50 bản/ml (56% và 47%) và < 400 bản sao/ml (65% so với 63%) cũng tương tự giữa hai nhóm. Tuy nhiên, chỉ có một lượng tương đối nhỏ bệnh nhân đã từng được điều trị trong nghiên cứu này với mức cơ sở tải lượng virut không giống nhau và sự ngưng điều trị giữa các nhóm, những kết quả này cần được hiểu một cách thận trọng.
Trong nghiên cứu ESS30008, 260 bệnh nhân được ức chế virut bằng liệu pháp hàng đầu abacavir 300mg dùng kèm với lamivudin 150mg, cả hai đều được dùng 2 lần/ngày và một PI hoặc NNRTI, được chọn ngẫu nhiên để tiếp tục sử dụng liệu pháp này hoặc chuyển sang phác đồ abacavir/lamivudin FDC cùng với một PI hoặc NNRTI trong vòng 48 tuần. Dữ liệu ban đầu thu được ở 24 tuần cho thấy nhóm FDC là có liên quan tới kết quả virut tương đương nhau (không thấp hơn) so với nhóm abacavir phối hợp với lamivudin, dựa trên tỷ lệ các bệnh nhân có HIV-1 RNA < 50 bản sao/ml (91% và 86% tương ứng, 95% CI – 11,1, 1,9).
Thông tin thêm
Tính an toàn và hiệu lực của viên nén abacavir trên một số liệu pháp phối hợp với nhiều thuốc khác nhau vẫn chưa được đánh giá một cách đầy đủ (đặc biệt là liệu pháp kết hợp với các NNRTI).
Abacavir thấm qua dịch não tủy – CSF (xem mục Các đặc tính dược động học) và cho thấy là có làm giảm nồng độ ARN HIV-1 trong dịch não tủy. Nhưng dù sao, abacavir cũng không thấy có tác động tới biểu hiện tâm lý thần kinh khi sử dụng cho các bệnh nhân AIDS kèm theo mất chứng mất trí nhớ.
5.4. Dữ liệu tiền lâm sàng:
Trong các thí nghiệm trên vi khuẩn thì thấy abacavir không gây đột biến, nhưng abacavir có hoạt tính in viro trong thử nghiệm bất thường nhiễm sắc thể ở lympho bào của người, thử nghiém u tế bào lympho (ung thư hạch) trên chuột, và thử nghiệm vi nhân in vivo. Điều này phù hợp với các hoạt tính đã được biết của các thuốc đồng đẳng nucleosid khác. Những kết quả này cũng chỉ ra rằng abacavir ít có khả năng gây hư hại nhiễm sắc thể in vitro và in vivo ở nồng độ thử nghiệm cao.
Các nghiên cứu gây ung thư với abacavir sử dụng theo đường uống trên chuột và chuột nhắt cho thấy có làm tăng tỷ lệ khối u ác tính và lành tính. Các khối u ác tính thường xuất hiện ở bao quy đầu của con đực và âm đạo của con cái, trên cả chuột và chuột nhắt, u ác tính còn xuất hiện trên tuyến giáp và trên gan của con đực, bàng quang, hạch lympho và hạ bì của con cái.
Phần lớn những khối u này xuất hiện khi sử dụng abacavir ở nồng độ cao nhất 330mg/kg/ngày trên chuột và 600mg/kg/ngày ở chuột nhắt. Một ngoại lệ, là có u xuất hiện ở bao quy đầu tại liều 110mg/kg trên chuột. Nồng độ toàn thân mà không có tác dụng gây độc trên chuột và chuột nhắt là tương ứng gấp 3 và 7 lần nồng độ toàn thân trên người trong suốt liệu trình điều trị. Trong khi khả năng gây ung thư còn chưa rõ, những dữ liệu này gợi ý rằng nguy cơ gây ung thư ở người là không đáng kế bằng những lợi ích có thể có trên lâm sàng.
Trên các nghiên cứu độc tính tiền lâm sàng, việc điều trị bằng abacavir đã cho thấy sự tăng trọng lượng gan trên chuột nhắt và khi. Chưa rõ ý nghĩa lâm sàng của khám phá này. Không có bằng chứng từ các nghiên cứu trên lâm sàng cho thấy là abacavir độc với gan. Thêm vào đó, không nhận thấy có tính tự cảm ứng chuyển hóa của abacavir hay gây cảm ứng chuyển hóa các thuốc khác được chuyền hóa qua gan ở người.
Nhận thấy có sự thoái hóa cơ tim nhẹ trên chuột và chuột nhắt khi sử dụng abacavir trong 2 năm. Nồng độ nói chung tương ứng cao gấp 7 đến 24 lần nồng độ được dự tính trên người. Ý nghĩa lâm sàng của khám phá này vẫn chưa được xác định.
Trong các nghiên cứu về độc tính sinh sản, nhận thấy abacavir gây độc tính trên phôi và bào thai của chuột nhắt nhưng trên thỏ lại không. Những dấu hiệu này bao gồm giản cân nặng phôi thai, phù thai, và tăng dị tật ở cơ xương, thai chết lưu ở giai đoạn đầu thai kỳ và sinh non. Không thể có kết luận về khả năng gây quá thai của abacavir độc tính trên phôi thai này. Một nghiên cứu về khả năng sinh sản trên chuột cho thấy rằng abacavir không gây ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của con đực cũng như con cái.
*Lưu ý:
Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ
Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com
6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:
6.1. Danh mục tá dược:
Tá dược: Silic dioxyd dang keo, magnesi stearat, cellulose vi tinh thể, natri tinh bột glycolat, opadry yellow 13K52177 ( HPMC, titan dioxyd, triacetin, oxyd sắt vàng, polysorbat 80).
6.2. Tương kỵ :
Không áp dụng.
6.3. Bảo quản:
Bảo quản ở nhiệt độ phòng, không quá 30 °C, tránh ẩm.
6.4. Thông tin khác :
Mô tả:
Viên nén abacavir là viên nén bao film hình con nhộng, hai mặt lôi, màu vàng, có in chữ “D” và số “88” trên một mặt, và mặt khác trơn.
6.5 Tài liệu tham khảo:
HDSD Thuốc Viên nén Abacavir 300 mg do Công ty Aurobindo Pharma Limited sản xuất (2018).
7. Người đăng tải /Tác giả:
Bài viết được sưu tầm hoặc viết bởi: Bác sĩ nhi khoa – Đỗ Mỹ Linh.
Kiểm duyệt , hiệu đính và đăng tải: PHARMOG TEAM