Symbicort Turbuhaler 160/4,5 (Budesonide + Formoterol)

Budesonide + Formoterol – Symbicort Turbuhaler

Thông tin tờ hướng dẫn sử dụng của thuốc Symbicort Turbuhaler

Dưới đây là nội dung tờ hướng dẫn sử dụng của Thuốc Symbicort Turbuhaler (Thông tin bao gồm liều dùng, cách dùng, chỉ định, chống chỉ định, thận trọng, dược lý…)

1. Tên hoạt chất và biệt dược:

Hoạt chất : Budesonide + Formoterol 

Phân loại: Thuốc cải thiện khả năng hít vào. Thuốc giãn khí phế quản dạng kết hợp

Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)

Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): R03AK07.

Biệt dược gốc: Symbicort Turbuhaler

Hãng sản xuất : AstraZeneca AB

2. Dạng bào chế Hàm lượng:

Dạng thuốc và hàm lượng

Thuốc bột để hít: hộp 1 ống hít 60 liều hoặc 120 liều: Mỗi liều phóng thích (liều qua đầu ngậm): Budesonid 160 mcg/liều hít, formoterol fumarat dihydrat 4,5 mcg/liều hít.

Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/liều phóng thích cùng một lượng budesonid và formoterol như các đơn sản phẩm Turbuhaler tương ứng, như là budesonid 200 mcg/liều hít (liều định chuẩn) và formoterol 6 mcg/liều hít (liều định chuẩn) tương đương với 4,5 mcg/liều hít (liều phóng thích).

Thuốc tham khảo:

SYMBICORT TURBUHALER 160/4,5
Mỗi liều thuốc bột để hít có chứa:
Budesonide …………………………. 160 mcg
Formoterol …………………………. 4,5 mcg
Tá dược …………………………. vừa đủ (Xem mục 6.1)

Symbicort Turbuhaler 160/4,5 (Budesonide + Formoterol)

SYMBICORT TURBUHALER 80/4,5
Mỗi liều thuốc bột để hít có chứa:
Budesonide …………………………. 80 mcg
Formoterol …………………………. 4,5 mcg
Tá dược …………………………. vừa đủ (Xem mục 6.1)

Symbicort Turbuhaler 80/4,5 (Budesonide + Formoterol)

3. Video by Pharmog:

[VIDEO DƯỢC LÝ]

————————————————

► Kịch Bản: PharmogTeam

► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog

► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/

► Group : Hội những người mê dược lý

► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/

► Website: pharmog.com

4. Ứng dụng lâm sàng:

4.1. Chỉ định:

Hen (suyễn)

Symbicort Turbuhaler được chỉ định cho người lớn và trẻ vị thành niên (từ 12 tuổi trở lên) trong điều trị bệnh hen (suyễn) để đạt được kiểm soát hen toàn diện, bao gồm giảm triệu chứng và giảm nguy cơ các đợt kịch phát (xem Liều lượng và cách dùng).

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD)

Symbicort được chỉ định cho người lớn từ 18 tuổi trở lên trong điều trị triệu chứng cho các bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính với thể tích thở ra gắng sức trong giây đầu (FEV1) < 70% so với giá trị bình thường ước tính (sau khi dùng thuốc giãn phế quản) và tiền sử có cơn kịch phát mặc dù được điều trị thường xuyên bằng thuốc giãn phế quản.

4.2. Liều dùng Cách dùng:

Cách dùng :

Hướng dẫn để dùng Turbuhaler đúng cách

Turbuhaler là một dụng cụ được vận hành bởi dòng khí hít vào, điều này có nghĩa là khi bệnh nhân hít qua đầu ngậm thì thuốc sẽ theo không khí được hít vào trong đường hô hấp.

Chú ý quan trọng:

Cần phải hướng dẫn bệnh nhân các điều sau:

Đọc kỹ chỉ dẫn sử dụng ở phần cuối của toa thuốc.

Hít mạnh và sâu qua đầu ngậm để đảm bảo liều tối ưu sẽ được phóng thích vào phổi.

Không được thở ra qua đầu ngậm.

Đậy nắp Symbicort Turbuhaler sau khi sử dụng.

Súc miệng sau khi hít liều duy trì để giảm thiểu nguy cơ nhiễm nấm ở hầu-họng. Nếu có nấm ở hầu họng, bệnh nhân cũng phải súc miệng bằng nước sau khi hít các liều khi cần thiết.

Bệnh nhân có thể không cảm nhận vị thuốc hoặc không cảm thấy có thuốc sau khi hít bằng Turbuhaler vì lượng thuốc trong mỗi liều rất nhỏ.

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG

– xem Bảng 10.

Image from Drug Label Content

Liều dùng:

*Hen (suyễn)

Symbicort Turbuhaler có thể được sử dụng theo các tiếp cận điều trị khác nhau:

A. Liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort (cho các bệnh nhân hen nhẹ)

B. Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort

C. Liệu pháp điều trị duy trì bằng Symbicort (liều cố định)

A. Liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort (cho các bệnh nhân hen nhẹ)

Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/hít được dùng khi cần để giảm các triệu chứng hen khi chúng xảy ra, và để ngăn ngừa các triệu chứng trong những trường hợp được bệnh nhân nhận ra để kết thúc cơn hen. Bệnh nhân được khuyên luôn luôn có sẵn Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/hít để sử dụng khi cần giảm triệu chứng.

Sử dụng dự phòng Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/hít đối với các co thắt phế quản do tập luyện hoặc do dị ứng (AIB/EIB) cần được trao đổi giữa nhân viên y tế và bệnh nhân; tần suất liều khuyến cáo nên được xem xét dựa trên phơi nhiễm dị ứng và cách thức tập luyện.

Người lớn và trẻ vị thành niên (từ 12 tuổi trở lên)

Bệnh nhân nên dùng một hít Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/hít khi có triệu chứng. Nếu triệu chứng vẫn còn sau vài phút, nên dùng thêm 1 hít nữa. Không dùng quá 6 liều hít trong 1 lần.

Tổng liều hàng ngày nhiều hơn 8 hít thường không cần thiết; tuy nhiên, tổng liều hàng ngày lên tới 12 hít có thể sử dụng tạm thời. Nếu các triệu chứng diễn tiến nặng hơn trong khoảng thời gian 3 ngày sau khi sử dụng thêm các hít khi cần, bệnh nhân cần tái đánh giá để có giải thích thêm về các triệu chứng còn tồn tại.

Trẻ em dưới 12 tuổi:

Tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng ở trẻ em dưới 12 tuổi chưa được nghiên cứu.

B. Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort

Khi cần điều trị duy trì bằng phối hợp corticosteroid dạng hít (ICS) và thuốc giãn phế quản chủ vận β2 tác dụng dài (LABA), bệnh nhân sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort và dùng thêm liều duy trì Symbicort Turbuhaler hàng ngày. Các liều hít khi cần giúp làm giảm nhanh chóng các triệu chứng và cải thiện kiểm soát hen toàn diện. Bệnh nhân được khuyên luôn đem theo Symbicort Turbuhaler để sử dụng khi cần giảm triệu chứng.

Sử dụng dự phòng Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/hít đối với các co thắt phế quản do tập luyện hoặc do dị ứng (AIB/EIB) cần được trao đổi giữa nhân viên y tế và bệnh nhân; tần suất liều khuyến cáo nên được xem xét dựa trên phơi nhiễm dị ứng và cách thức tập luyện.

Người lớn và trẻ vị thành niên (từ 12 tuổi trở lên): Bệnh nhân nên dùng 1 liều hít khi có triệu chứng để kiểm soát hen. Nếu triệu chứng vẫn còn sau vài phút, nên dùng thêm 1 liều hít nữa. Không dùng quá 6 liều hít trong 1 lần.

Bệnh nhân có thể cần dùng liều duy trì khuyến cáo Symbicort Turbuhaler, liều duy trì khuyến cáo là 2 hít/ngày, một liều hít buổi sáng và 1 liều hít buổi tối hoặc 2 liều hít vào buổi sáng hoặc buổi tối. Một số bệnh nhân có thể cần dùng liều duy trì Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg/hít 2 hít, 2 lần/ngày. Liều duy trì nên được hiệu chỉnh đến mức liều thấp nhất mà vẫn đạt được hiệu quả kiểm soát hen. Tổng liều hàng ngày nhiều hơn 8 hít thường không cần thiết; tuy nhiên tổng liều hàng ngày lên tới 12 hít có thể sử dụng tạm thời. Nếu các triệu chứng diễn tiến nặng hơn trong khoảng thời gian 3 ngày sau khi sử dụng liệu pháp duy trì và dùng thêm các hít khi cần, những bệnh nhân này cần được tái đánh giá để có giải thích thêm về các triệu chứng còn tồn tại.

Trẻ em dưới 12 tuổi: Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort không khuyến cáo dùng cho trẻ em.

C. Liệu pháp điều trị duy trì bằng Symbicort (liều cố định)

Khi cần điều trị duy trì bằng phối hợp corticosteroid dạng hít với thuốc chủ vận β2 tác dụng dài, Symbicort Turbuhaler được dùng với liệu pháp liều cố định hàng ngày cùng với sử dụng thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn riêng lẻ để giảm triệu chứng. Bệnh nhân được khuyên luôn có sẵn thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn riêng lẻ để sử dụng khi cần giảm triệu chứng.

Việc tăng sử dụng thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn cho thấy tình trạng xấu đi của bệnh và cần thiết đánh giá lại liệu pháp điều trị hen. Liều của Symbicort Turbuhaler nên được cá nhân hóa theo mức độ nặng của bệnh. Khi việc kiểm soát hen đạt được, liều duy trì nên được hiệu chỉnh đến mức liều thấp nhất mà vẫn kiểm soát hen hiệu quả.

Người lớn (từ 18 tuổi trở lên): 1-2 hít, 2 lần/ngày. Một số bệnh nhân có thể cần liều lên đến tối đa 4 hít/lần, 2 lần/ngày.

Trẻ vị thành niên (12-17 tuổi): 1-2 hít/lần, 2 lần/ngày.

Trong thực hành lâm sàng, khi đạt được sự kiểm soát triệu chứng với phác đồ 2 lần/ngày, việc điều chỉnh đến liều thấp nhất có hiệu quả có thể gồm việc sử dụng Symbicort 1 lần/ngày, nếu theo ý kiến của bác sỹ điều trị là vẫn cần một thuốc giãn phế quản tác dụng dài phối hợp với corticosteroid dạng hít để duy trì kiểm soát hen.

Việc tăng sử dụng ống hít riêng chứa thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh cho thấy bệnh hen đang diễn tiến nặng hơn và cần phải đánh giá lại liệu pháp điều trị hen.

Trẻ em (từ 6 tuổi trở lên): Đã có loại hàm lượng thấp hơn cho trẻ 6-11 tuổi.

Trẻ em dưới 6 tuổi: Do dữ liệu hạn chế, không khuyến cáo dùng Symbicort cho trẻ em dưới 6 tuổi.

*Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD)

Liều khuyến cáo:

Người lớn: 2 hít/lần, 2 lần/ngày.

*Thông tin tổng quát:

Nếu bệnh nhân sử dụng Symbicort Turbuhaler như liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng (cả sử dụng đơn lẻ hoặc sử dụng kết hợp với liệu pháp duy trì) nhân viên y tế nên trao đổi với các bệnh nhân về phơi nhiễm dị ứng và cách thức tập luyện và cân nhắc khi đề xuất tần suất liều trong điều trị hen.

Nếu bệnh nhân sử dụng Symbicort Turbuhaler như liệu pháp duy trì, họ nên được nhắc nhở sử dụng liều duy trì Symbicort Turbuhaler ngay cả khi không có triệu chứng để đạt được hiệu quả mong muốn.

Các nhóm bệnh nhân đặc biệt: Không cần dùng liều đặc biệt ở người cao tuổi. Chưa có dữ liệu về việc dùng Symbicort ở bệnh nhân suy gan hay suy thận. Vì budesonid và formoterol được thải trừ chủ yếu qua chuyển hóa ở gan nên nồng độ thuốc sẽ tăng ở bệnh nhân xơ gan nặng.

4.3. Chống chỉ định:

Quá mẫn (dị ứng) với budesonide, formoterol hay lactose (trong đó có chứa lượng nhỏ protein sữa).

4.4 Thận trọng:

Thận trọng

Liều duy trì nên được giảm từ từ khi ngưng điều trị dài hạn và không nên ngưng thuốc đột ngột. Không nên ngưng hoàn toàn corticosteroid dạng hít trừ khi việc ngưng tạm thời được yêu cầu để xác nhận việc chẩn đoán hen.

Nếu tình trạng kiểm soát hen hoặc COPD bị suy giảm đột ngột, có thể tiến triển nặng và đe dọa tính mạng, bệnh nhân phải được đánh giá về mặt y khoa ngay lập tức. Ở tình huống này, nên xem xét tăng liều điều trị với corticosteroid (như dùng một đợt corticosteroid uống) hoặc điều trị bằng kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn. Để điều trị những đợt kịch phát nặng, sự phối hợp corticosteroid dạng hít với thuốc chủ vận β2 tác dụng dài đơn lẻ là không đủ. Bệnh nhân nên được khuyên đi khám nếu thấy việc điều trị không đạt hiệu quả hoặc dùng vượt quá liều thuốc Symbicort Turbuhaler được kê đơn.

Bệnh nhân được khuyên nên luôn luôn có sẵn thuốc giảm triệu chứng như Symbicort Turbuhaler (đối với bệnh nhân dùng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort hoặc liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort) hoặc thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn riêng lẻ (đối với bệnh nhân hen khác dùng Symbicort Turbuhaler chỉ như liệu pháp điều trị duy trì liều cố định và đối với các bệnh nhân COPD).

Bệnh nhân nên ghi nhớ dùng liều duy trì Symbicort như đã được kê toa ngay cả khi không có triệu chứng. Dùng Symbicort để phòng ngừa triệu chứng ví dụ như trước khi tập luyện thể thao chưa được nghiên cứu. Các liều hít giảm triệu chứng Symbicort được dùng khi có triệu chứng hen nhưng không dùng để dự phòng thường xuyên như trước khi tập luyện. Để sử dụng với các mục đích như thế, nên cân nhắc dùng thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh.

Khi các triệu chứng hen được kiểm soát, cần xem xét giảm liều Symbicort từ từ. Điều quan trọng là cần theo dõi thường xuyên những bệnh nhân giảm liều điều trị. Nên sử dụng liều Symbicort thấp nhất có hiệu quả (xem phần Liều lượng và cách dùng).

Không nên khởi đầu điều trị bằng Symbicort khi bệnh nhân đang ở trong đợt kịch phát hen, hoặc nếu tình trạng bệnh diễn tiến xấu thấy rõ hoặc cấp tính.

Biến cố ngoại ý nghiêm trọng liên quan đến hen và đợt kịch phát hen có thể xảy ra khi điều trị bằng Symbicort. Bệnh nhân có thể được tiếp tục điều trị nhưng cần tham khảo ý kiến bác sĩ nếu triệu chứng hen vẫn không được kiểm soát hoặc xấu hơn sau khi điều trị bằng Symbicort.

Không có dữ liệu nghiên cứu lâm sàng trên Symbicort Turbuhaler ở bệnh nhân COPD với FEV1 >50% so với giá trị dự đoán bình thường trước khi dùng thuốc giãn phế quản và FEV1 <70% so với giá trị dự đoán bình thường sau khi dùng thuốc giãn phế quản.

Cũng như các trị liệu đường hít khác, co thắt phế quản kịch phát có thể xảy ra với triệu chứng thở khò khè tăng lên đột ngột và khó thở sau khi hít thuốc. Nếu bệnh nhân gặp phải tình trạng co thắt phế quản nghịch thường nên ngừng Symbicort ngay lập tức, bệnh nhân cần được đánh giá và thay thế bằng một liệu pháp khác, nếu cần. Co thắt phế quản nghịch thường đáp ứng với thuốc giãn phế quản dạng hít tác dụng nhanh và nên được điều trị ngay.

Các tác động toàn thân có thể xảy ra khi dùng bất kỳ corticosteroid đường hít nào, đặc biệt khi dùng liều cao trong một thời gian dài. Các tác động này ít xảy ra khi dùng corticosteroid đường hít so với khi dùng corticosteroid uống. Các tác động toàn thân có thể xảy ra bao gồm hội chứng Cushing, các đặc điểm Cushing, ức chế tuyến thượng thận, chậm phát triển ở trẻ em và trẻ vị thành niên, giảm mật độ khoáng của xương, đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp, và hiếm hơn, một loạt các tác động tâm lý hoặc hành vi bao gồm chứng tăng động, chứng rối loạn giấc ngủ, lo lắng, trầm cảm hoặc kích động (đặc biệt ở trẻ em).

Nên xem xét tác động có thể xảy ra trên mật độ xương, đặc biệt là đối với bệnh nhân dùng liều cao trong thời gian dài mà đã có những yếu tố nguy cơ đồng thời gây loãng xương. Các nghiên cứu dài hạn về budesonid đường hít trên trẻ em ở liều trung bình mỗi ngày 400 mcg (liều định chuẩn) hoặc người lớn ở liều trung bình 800 mcg (liều định chuẩn) đã không cho thấy có bất kỳ tác động đáng kể trên mật độ khoáng của xương. Chưa có thông tin về tác động của Symbicort ở các liều cao hơn.

Nếu có bất kỳ lý do nào cho thấy chức năng tuyến thượng thận bị suy giảm khi điều trị bằng steroid toàn thân trước đó, nên thận trọng khi chuyển sang dùng Symbicort cho bệnh nhân.

Lợi ích của việc điều trị bằng budesonid đường hít là thường làm giảm thiểu nhu cầu dùng steroid đường uống, nhưng ở bệnh nhân chuyển từ steroid đường uống có thể vẫn còn nguy cơ suy giảm dự trữ tuyến thượng thận trong một thời gian đáng kể. Hồi phục có thể mất một khoảng thời gian đáng kể sau khi ngừng điều trị bằng steroid đường uống và do đó các bệnh nhân phụ thuộc steroid đường uống chuyển sang dùng budesonid hít có thể vẫn có nguy cơ bị suy giảm chức năng thượng thận trong một khoảng thời gian đáng kể. Trong những trường hợp như vậy, chức năng trục HPA nên được theo dõi thường xuyên.

Điều trị kéo dài với liều cao corticosteroid hít, đặc biệt là cao hơn liều khuyến cáo, cũng có thể dẫn đến sự ức chế thượng thận có ý nghĩa lâm sàng. Do đó, bổ sung corticosteroid toàn thân nên được cân nhắc trong thời kỳ căng thẳng như nhiễm trùng nặng hoặc phẫu thuật tự chọn. Giảm liều nhanh các steroid có thể gây ra tình trạng suy thượng thận cấp. Các triệu chứng và dấu hiệu có thể xuất hiện trong cơn suy thượng thận cấp có thể không rõ ràng nhưng bao gồm chứng chán ăn, đau bụng, giảm cân, mệt mỏi, nhức đầu, buồn nôn, nôn, giảm mức độ nhận thức, co giật, hạ huyết áp và hạ đường huyết.

Không nên ngưng thuốc đột ngột khi điều trị bằng steroid bổ sung toàn thân hoặc budesonid dạng hít.

Trong quá trình chuyển từ dạng uống sang Symbicort, sẽ có một tác động steroid toàn thân thấp hơn thông thường có thể dẫn đến xuất hiện các triệu chứng dị ứng hoặc viêm khớp như viêm mũi, chàm và đau cơ và khớp. Cần bắt đầu điều trị đặc hiệu cho những triệu chứng này. Trong một số hiếm trường hợp có thể nghi ngờ hiệu quả glucocorticosteroid không đủ nếu xuất hiện các triệu chứng như mệt mỏi, nhức đầu, buồn nôn và nôn. Trong những trường hợp này, đôi khi cần tăng liều tạm thời glucocorticosteroid đường uống.

Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm Candida hầu họng, bệnh nhân nên được chỉ dẫn súc miệng bằng nước rồi nhổ ra sau mỗi lần hít liều duy trì. Nếu có nấm ở hầu họng, bệnh nhân cũng phải súc miệng bằng nước sau khi hít các liều khi cần thiết.

Nên tránh điều trị đồng thời với itraconazol, ritonavir hoặc các chất ức chế CYP3A4 mạnh (xem phần Tương tác). Nếu không thể tránh được, nên kéo dài khoảng cách giữa các lần dùng các thuốc có tương tác với nhau càng lâu càng tốt. Không khuyến cáo dùng liệu pháp điều trị duy trì và giảm triệu chứng hen bằng Symbicort ở bệnh nhân dùng chất ức chế CYP3A4 mạnh.

Symbicort nên được dùng thận trọng đối với bệnh nhân nhiễm độc giáp, u tế bào ưa crôm, đái tháo đường, giảm kali máu chưa điều trị, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, hẹp động mạch chủ dưới van vô căn, tăng huyết áp nặng, phình mạch hay các rối loạn tim mạch trầm trọng khác như là bệnh tim thiếu máu cục bộ, nhịp tim nhanh hoặc suy tim nặng.

Thận trọng khi điều trị ở bệnh nhân có khoảng thời gian QTc kéo dài. Bản thân formoterol có thể kéo dài thời gian QTc.

Nên đánh giá lại nhu cầu và liều corticosteroid đường hít ở bệnh nhân lao phổi thể tiến triển hoặc tiềm ẩn, nhiễm nấm và virus đường hô hấp.

Khả năng hạ kali máu nặng có thể xảy ra khi dùng liều cao chất chủ vận β2. Dùng đồng thời chất chủ vận β2 với những thuốc gây hạ hoặc có khả năng gây hạ kali máu như các dẫn xuất của xanthin, steroid và thuốc lợi tiểu có thể làm tăng tác động hạ kali máu do dùng chất chủ vận β2. Nên đặc biệt thận trọng ở bệnh nhân hen không ổn định đang dùng các thuốc giãn phế quản cắt cơn khác nhau, ở bệnh nhân hen nặng cấp vì các nguy cơ phối hợp có thể gia tăng do giảm oxy và ở bệnh nhân có các tình trạng bệnh khác khi khả năng xảy ra phản ứng ngoại ý hạ kali huyết gia tăng. Nên theo dõi nồng độ kali huyết thanh trong những trường hợp này.

Giống như các chất chủ vận β2, nên xem xét đến tăng cường kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường.

Rối loạn thị giác có thể được báo cáo đối với sử dụng corticosteroid toàn thân hay tại chỗ. Nếu bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng như nhìn mờ hoặc các rối loạn thị giác khác, bệnh nhân nên được xem xét chuyển đến bác sĩ nhãn khoa để đánh giá các nguyên nhân có thể bao gồm đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp hoặc các bệnh hiếm gặp như bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch (CSCR), loại bệnh đã được báo cáo sau khi sử dụng corticosteroid toàn thân hoặc tại chỗ.

Symbicort Turbuhaler chứa lactose (<1 mg/lần hít). Lượng lactose này thường không gây vấn đề gì đối với bệnh nhân không dung nạp lactose. (Tá dược lactose chứa một lượng nhỏ protein sữa có thể gây phản ứng dị ứng).

Trẻ em

Chiều cao của trẻ em đang điều trị dài hạn với corticosteroid đường hít được khuyến cáo nên được theo dõi thường xuyên. Nếu có tình trạng chậm phát triển, việc điều trị nên được đánh giá lại nhằm mục đích giảm liều corticosteroid đường hít xuống liều thấp nhất mà tại đó nếu có thể vẫn duy trì hiệu quả tình trạng kiểm soát hen. Phải cân nhắc cẩn thận giữa lợi ích của việc điều trị bằng corticosteroid và nguy cơ chậm phát triển có thể xảy ra. Ngoài ra, cần xem xét đến việc chỉ dẫn bệnh nhân đến các bác sỹ chuyên khoa hô hấp nhi.

Một số ít dữ liệu từ các nghiên cứu dài hạn đã gợi ý rằng hầu hết trẻ em và trẻ vị thành niên điều trị bằng budesonid đường hít cơ bản sẽ đạt được chiều cao mục tiêu khi trưởng thành. Tuy nhiên, người ta đã ghi nhận có sự giảm phát triển nhẹ và tạm thời lúc đầu (khoảng 1 cm). Điều này thường xảy ra trong năm điều trị đầu tiên.

Viêm phổi ở bệnh nhân COPD

Sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi, bao gồm viêm phổi nằm viện, đã được quan sát thấy ở bệnh nhân COPD dùng corticosteroid hít. Có một số bằng chứng về nguy cơ bị viêm phổi tăng lên cùng với việc tăng liều steroid nhưng điều này vẫn chưa được chứng minh rõ ràng trong tất cả các nghiên cứu.

Không có bằng chứng lâm sàng kết luận về sự khác biệt trong nhóm các sản phẩm corticosteroid hít về mức độ nguy cơ gây viêm phổi.

Các bác sĩ nên cảnh giác với sự phát triển bệnh viêm phổi ở bệnh nhân COPD vì đặc điểm lâm sàng của nhiễm trùng này trùng lấp các triệu chứng cơn kịch phát COPD.

Các yếu tố nguy cơ viêm phổi ở bệnh nhân COPD bao gồm hút thuốc, tuổi già, chỉ số khối cơ thể (BMI) thấp và COPD nặng.

Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.

Symbicort không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể lên khả năng lái xe và vận hành máy.

4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:

Xếp hạng cảnh báo

AU TGA pregnancy category: B3

US FDA pregnancy category: NA

Thời kỳ mang thai:

Không có dữ liệu lâm sàng về việc dùng Symbicort hoặc dùng phối hợp formoterol và budesonid ở phụ nữ có thai. Dữ liệu từ một nghiên cứu về sự phát triển ở phôi-thai trên chuột cho thấy không có bằng chứng về bất cứ tác động nào khác khi sử dụng phối hợp này.

Không có dữ liệu đầy đủ về việc dùng formoterol cho phụ nữ có thai. Trong các nghiên cứu trên súc vật, ở các liều rất cao, formoterol gây ra các tác động ngoại ý trong các nghiên cứu về sự sinh sản.

Dữ liệu trên khoảng 2.000 phụ nữ có thai sử dụng thuốc cho thấy không có nguy cơ gây quái thai liên quan đến việc dùng budesonid hít. Các nghiên cứu trên súc vật cho thấy glucocorticosteroid gây dị dạng. Điều này không liên quan đến người khi dùng các liều được khuyến cáo.

Các nghiên cứu trên súc vật cũng cho thấy có sự liên quan giữa việc dùng glucocorticoid thái quá trước khi sinh với việc tăng những nguy cơ như: chậm phát triển trong tử cung, bệnh tim mạch khi trưởng thành, thay đổi lâu dài mật độ các thụ thể glucocorticoid, số lượng chất trung gian dẫn truyền thần kinh và hành vi khi tiếp xúc dưới giới hạn liều gây quái thai.

Trong thai kỳ, Symbicort chỉ nên dùng khi cân nhắc thấy hiệu quả vượt trội nguy cơ. Nên dùng liều budesonid thấp nhất có hiệu quả để duy trì sự kiểm soát hen (suyễn) tốt.

Khả năng sinh sản:

Không có dữ liệu về khả năng tác động của budesonid đối với khả năng sinh sản. Các nghiên cứu sinh sản ở động vật với formoterol cho thấy có sự giảm về khả năng sinh sản ở chuột đực ở nồng độ toàn thân cao.

Thời kỳ cho con bú:

Budesonid được bài tiết qua sữa mẹ. Tuy nhiên, ở liều điều trị, chưa ghi nhận có tác động nào ở trẻ bú mẹ được dự đoán. Người ta vẫn chưa biết formoterol có vào sữa mẹ hay không. Trên chuột, một lượng nhỏ formoterol đã được phát hiện trong sữa mẹ. Việc dùng Symbicort cho phụ nữ đang cho con bú chỉ nên được cân nhắc nếu lợi ích cho người mẹ cao hơn các nguy cơ có thể xảy ra đối với trẻ.

4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):

Vì Symbicort chứa cả hai chất budesonid và formoterol, có thể xảy ra các tác động ngoại ý tương tự như đã được báo cáo đối với các chất này. Người ta không thấy có sự tăng tần suất tác động ngoại ý khi dùng đồng thời cả hai chất trên. Phản ứng ngoại ý liên quan đến thuốc thường gặp nhất là những phản ứng phụ có thể dự báo trước về mặt dược lý học khi dùng chất chủ vận β2 như run rẩy và hồi hộp. Các phản ứng phụ này thường nhẹ và biến mất sau vài ngày điều trị.

Dưới đây là các phản ứng ngoại ý có liên quan đến budesonid hoặc formoterol, được liệt kê theo hệ cơ quan và tần suất. Tần suất được định nghĩa như sau: rất thường gặp (≥1/10), thường gặp (≥1/100, <1/10), ít gặp (≥1/1000, <1/100), hiếm gặp (≥1/10.000,<1/1000) và rất hiếm (<1/10.000).

– xem Bảng 9.

Hệ cơ quan Tần suất Tác dụng ngoại ý
Rối loạn tim mạch Thường gặp Hồi hộp
Ít gặp Nhịp tim nhanh
Hiếm gặp Loạn nhịp tim như rung nhĩ, nhịp tim nhanh trên thất, ngoại tâm thu
Rất hiếm gặp Cơn đau thắt ngực
Rối loạn nội tiết Rất hiếm gặp Dấu hiệu hay triệu chứng về tác dụng glucocorticosteroid toàn thân, như ức chế tuyến thượng thận, chậm phát triển, giảm mật độ khoáng hoá xương, đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp.
Rối loạn tiêu hóa Ít gặp Buồn nôn
Rối loạn hệ miễn dịch Hiếm gặp Phản ứng dị ứng tức thời hoặc chậm như ngoại ban, nổi mề đay, ngứa, viêm da, phù mạch và phản ứng phản vệ
Nhiễm khuẩn và nhiễm vi nấm Thường gặp Nhiễm Candida ở hầu họng
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng Hiếm gặp Hạ kali máu
Rất hiếm gặp Tăng đường huyết
Rối loạn cơ-xương, mô liên kết và xương Ít gặp Chuột rút (vọp bẻ)
Rối loạn hệ thần kinh Thường gặp Nhức đầu, run rẩy
Ít gặp Chóng mặt
Hiếm gặp Rối loạn vị giác
Rối loạn tâm thần Ít gặp Kích động, bồn chồn, nóng nảy, rối loạn giấc ngủ
Rất hiếm gặp Tràm cảm, rối loạn hành vi (chủ yếu ở trẻ em)
Rối loạn hô hấp, lồng ngực và trung thất Thường gặp Kích ứng nhẹ tại họng, ho, khan tiếng
Hiếm gặp Co thắt phế quản
Rối loạn da và mô dưới da Ít gặp Vết bầm da
Rối loạn mạch máu Rất hiếm gặp Dao động huyết áp

Nhiễm nấm Candida hầu họng là do sự lắng đọng của thuốc. Bệnh nhân nên súc miệng bằng nước sau mỗi lần dùng liều duy trì sẽ giảm thiểu nguy cơ. Nhiễm nấm Candida hầu họng thường đáp ứng với điều trị chống nấm tại chỗ mà không cần phải ngưng dùng corticoid dạng hít. Nếu bị tưa miệng, bệnh nhân cũng nên súc miệng bằng nước sau khi dùng thuốc khi cần thiết.

Cũng như các điều trị dạng hít khác, co thắt phế quản nghịch thường có thể xảy ra ở những trường hợp rất hiếm, ít hơn 1/10.000 người, với triệu chứng khò khè tăng lên đột ngột và khó thở sau khi hít thuốc. Co thắt phế quản nghịch thường đáp ứng với thuốc giãn phế quản dạng hít tác dụng nhanh và nên được điều trị ngay. Nên ngưng Symbicort ngay, bệnh nhân cần được đánh giá và dùng liệu pháp thay thế nếu cần (xem phần Cảnh báo và thận trọng).

Tác dụng toàn thân của corticosteroid đường hít có thể xảy ra khi dùng liều cao trong một thời gian dài. Những tác động này ít có khả năng xảy ra hơn so với corticosteroid uống. Các tác động toàn thân có thể bao gồm hội chứng Cushing, các đặc điểm Cushing, ức chế thượng thận, chậm phát triển ở trẻ em và trẻ vị thành niên, giảm mật độ khoáng trong xương, đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp. Tăng tính nhạy cảm đối với nhiễm trùng và suy giảm khả năng thích nghi với stress cũng có thể xảy ra. Tác dụng có thể phụ thuộc vào liều, thời gian tiếp xúc với steroid, dùng steroid đồng thời và trước đó và độ nhạy cảm cá nhân.

Việc điều trị bằng chất chủ vận β2 có thể làm tăng nồng độ insulin, acid béo tự do, glycerol và các thể cetone trong máu.

Liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort (SYGMA 1 và 2)

Nhìn chung, liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort thường được dung nạp tốt dựa trên tần suất và bản chất của phản ứng ngoại ý. Không có quan ngại mới về an toàn được xác định khi sử dụng Symbicort Turbuhaler 150/4,5 mcg/hít khi cần ở đối tượng bệnh nhân hen nhẹ.

Trẻ em:

Nên theo dõi thường xuyên chiều cao của trẻ khi điều trị lâu dài bằng corticosteroid hít.

Tá dược lactose có chứa một lượng nhỏ protein sữa, do đó có thể gây phản ứng dị ứng.

Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:

Ngừng sử dụng thuốc. Với các phản ứng bất lợi nhẹ, thường chỉ cần ngừng thuốc. Trường hợp mẫn cảm nặng hoặc phản ứng dị ứng, cần tiến hành điều trị hỗ trợ (giữ thoáng khí và dùng epinephrin, thở oxygen, dùng kháng histamin, corticoid…).

4.8 Tương tác với các thuốc khác:

Tương tác dược động học

Các chất ức chế mạnh CYP3A4 (như ketoconazol, itraconazol, voriconazol, posaconazol, clarithromycin, telithromycin, nefazodon và thuốc ức chế protease HIV) có thể làm tăng đáng kể nồng độ budesonid huyết tương và nên tránh dùng đồng thời các thuốc này. Nếu không thể thì khoảng thời gian giữa việc dùng chất ức chế và budesonid nên càng cách xa càng tốt. Không khuyến cáo dùng liệu pháp điều trị duy trì và giảm triệu chứng hen bằng Symbicort ở bệnh nhân dùng chất ức chế CYP3A4 mạnh.

Dùng đồng thời thuốc ức chế CYP3A4 mạnh ketoconazol, 200 mg x 1 lần/ngày, làm tăng trung bình gấp sáu lần nồng độ của budesonid uống (liều đơn 3 mg) trong huyết tương. Khi ketoconazol được dùng 12 giờ sau khi dùng budesonid, nồng độ chỉ tăng trung bình gấp ba lần cho thấy rằng khoảng cách giữa 2 liều có thể làm giảm sự tăng nồng độ huyết tương. Một số ít dữ liệu về tương tác này đối với budesonid dạng hít liều cao chỉ ra rằng tăng nồng độ trong huyết tương (trung bình gấp 4 lần) có thể xảy ra nếu itraconazole, 200 mg một lần mỗi ngày, được dùng đồng thời với budesonid dạng hít (liều duy nhất 1.000 mcg).

Tương tác dược lực học

Thuốc chẹn beta có thể làm giảm hoặc ức chế tác động của formoterol. Vì vậy, Symbicort không nên dùng với thuốc chẹn bêta (kể cả thuốc nhỏ mắt) trừ phi có lý do thuyết phục.

Dùng đồng thời với quinidin, disopyramid, procainamid, phenothiazin, thuốc kháng histamin (terfenadin), và chất chống trầm cảm 3 vòng có thể làm kéo dài khoảng QTc và gia tăng nguy cơ loạn nhịp thất.

Hơn nữa, L-Dopa, L-thyroxin, oxytocin và rượu có thể ảnh hưởng tính dung nạp của tim đối với thuốc cường giao cảm β2.

Dùng đồng thời với IMAO kể cả những tác nhân có đặc tính tương tự như furazolidon và procarbazin có thể thúc đẩy phản ứng tăng huyết áp.

Tăng nguy cơ loạn nhịp tim ở bệnh nhân đang gây mê với hydrocarbon halogen hóa.

Dùng đồng thời với các thuốc cường giao cảm beta khác hoặc các thuốc kháng cholinergic có thể có tác động giãn phế quản cộng hợp mạnh.

Giảm kali máu có thể làm tăng khuynh hướng loạn nhịp tim ở bệnh nhân điều trị bằng digitalis glycosid.

Giảm kali máu có thể do dùng chất chủ vận β2 và có thể do dùng đồng thời với các dẫn xuất xanthin, corticosteroid và lợi tiểu.

Budesonid và formoterol không cho thấy có tương tác với các thuốc khác dùng để điều trị hen (suyễn).

Trẻ em

Các nghiên cứu về tương tác chỉ mới thực hiện ở người lớn.

4.9 Quá liều và xử trí:

Quá liều formoterol sẽ dẫn đến các tác động điển hình của chất chủ vận β2: run rẩy, nhức đầu, hồi hộp. Các triệu chứng ghi nhận từ những trường hợp riêng lẻ như nhanh nhịp tim, tăng đường huyết, hạ kali huyết, đoạn QTc kéo dài, loạn nhịp tim, buồn nôn và nôn. Có thể chỉ định dùng các điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Liều 90 mcg dùng trong 3 giờ ở bệnh nhân tắc nghẽn phế quản cấp cũng không gây quan ngại về mặt an toàn.

Quá liều cấp budesonid, ngay cả khi dùng các liều quá mức, không là một vấn đề lâm sàng. Khi dùng lâu dài các liều quá mức, có thể xảy ra các tác động glucocorticosteroid toàn thân như là cường năng vỏ thượng thận và ức chế tủy thượng thận.

Nếu trị liệu bằng Symbicort phải ngưng do quá liều thành phần formoterol trong thuốc, phải xem xét đến trị liệu bằng corticosteroid đường hít thích hợp.

5. Cơ chế tác dụng của thuốc :

5.1. Dược lực học:

Nhóm dược trị liệu: Thuốc cường giao cảm và các thuốc khác dùng trong bệnh tắc nghẽn đường hô hấp.

Mã ATC: R03AK07.

*Cơ chế tác động và tác động dược lực học

Symbicort Turbuhaler chứa formoterol và budesonid, các chất này có những phương thức tác động khác nhau và cho thấy có tác động cộng hợp làm giảm các đợt kịch phát hen (suyễn) và COPD.

Các đặc tính chuyên biệt của budesonid và formoterol cho thấy sản phẩm kết hợp 2 hoạt chất này có thể dùng như liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng hoặc như liệu pháp điều trị duy trì đối với bệnh nhân hen và điều trị triệu chứng đối với những bệnh nhân COPD từ trung bình đến nặng.

Budesonid

Budesonid là một glucocorticosteroid mà khi dùng đường hít sẽ cho tác động kháng viêm phụ thuộc liều tại đường hô hấp, làm giảm các triệu chứng và ít xảy ra các đợt kịch phát hen suyễn. Budesonid đường hít có ít tác dụng ngoại ý nặng so với khi dùng corticosteroid toàn thân. Cơ chế chính xác đối với tác động kháng viêm này của glucocorticosteroid vẫn chưa được biết.

Formoterol

Formoterol là chất chủ vận β2 chọn lọc mà khi dùng đường hít sẽ gây giãn cơ trơn phế quản nhanh và dài ở bệnh nhân tắc nghẽn đường hô hấp có thể hồi phục. Tác động giãn phế quản phụ thuộc vào liều với thời gian khởi phát trong vòng 1-3 phút. Thời gian tác động kéo dài tối thiểu 12 giờ sau khi dùng liều đơn.

Cơ chế tác dụng:

Thuốc chứa formoterol và budesonide, các chất này có những phương thức tác động khác nhau và cho thấy có tác động cộng hợp làm giảm các đợt kịch phát hen (suyễn).

Các đặc tính chuyên biệt của budesonide và formoterol cho thấy sản phẩm kết hợp 2 hoạt chất này có thể dùng như liệu pháp điều trị duy trì và giảm triệu chứng hen hoặc như liệu pháp điều trị duy trì.

Budesonide

Budesonide là một glucocorticosteroid mà khi dùng đường hít sẽ cho tác động kháng viêm phụ thuộc liều tại đường hô hấp, làm giảm các triệu chứng và ít xảy ra các đợt kịch phát hen suyễn. Budesonide đường hít có ít tác dụng ngoại ýnặng so với khi dùng corticosteroid toàn thân. Cơ chế chính xác đối với tác động kháng viêm này của glucocorticosteroid vẫn chưa được biết.

Formoterol

Formoterol là chất chủ vận bêta-2 chọn lọc mà khi dùng đường hít sẽ gây giãn cơ trơn phế quản nhanh và kéo dài ở bệnh nhân tắc nghẽn đường hô hấp có thể hồi phục. Tác động giãn phế quản phụ thuộc vào liều với thời gian khởi phát trong vòng 1 3 phút. Thời gian tác động kéo dài tối thiểu 12 giờ sau khí dùng liều đơn.

[XEM TẠI ĐÂY]

5.2. Dược động học:

Hấp thu

Symbicort Turbuhaler và các đơn sản phẩm tương ứng đã được chứng tỏ là tương đương về mặt sinh học đối với nồng độ và thời gian tiếp xúc toàn thân của budesonid và formoterol. Mặc dù vậy, tình trạng ức chế cortisol tăng nhẹ sau khi dùng Symbicort so với đơn trị liệu đã được ghi nhận. Sự khác biệt được xem là không ảnh hưởng đến tính an toàn trên lâm sàng.

Không có bằng chứng về tương tác dược động học giữa budesonid và formoterol.

Các tham số dược động học của các chất tương ứng là tương tự nhau sau khi dùng budesonid và formoterol riêng lẻ hoặc dùng Symbicort Turbuhaler. Đối với budesonid, AUC tăng nhẹ, tốc độ hấp thu nhanh hơn và nồng độ tối đa trong huyết tương cao hơn sau khi dùng phối hợp. Đối với formoterol, nồng độ tối đa trong huyết tương là tương tự sau khi dùng phối hợp. Budesonid hít được hấp thu nhanh chóng và nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được trong vòng 30 phút sau khi hít. Các nghiên cứu cho thấy lượng budesonid định vị trung bình trong phổi qua Turbuhaler thay đổi từ 32 đến 44% liều phóng thích. Độ khả dụng sinh học toàn thân khoảng 49% liều phóng thích. Sự lắng đọng phổi ở trẻ 6-16 tuổi tương tự như ở người lớn khi dùng liều giống nhau. Kết quả nồng độ trong huyết tương chưa được xác định.

Formoterol hít được hấp thu nhanh chóng và nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được trong vòng 10 phút sau khi hít. Trong các nghiên cứu, lượng formoterol định vị trung bình trong phổi khi hít qua Turbuhaler thay đổi từ 28 đến 49% liều phóng thích. Độ khả dụng sinh học toàn thân khoảng 61% liều phóng thích.

Phân bố và chuyển hóa

Độ gắn kết protein huyết tương khoảng 50% đối với formoterol và 90% đối với budesonid. Thể tích phân bố khoảng 4 L/kg đối với formoterol và 3 L/kg đối với budesonid. Formoterol bị bất hoạt qua các phản ứng liên hợp (các chất chuyển hóa khử O-metyl và khử formyl có hoạt tính được hình thành, nhưng chúng được tìm thấy chủ yếu ở dạng liên hợp không hoạt tính). Budesonid qua một sự chuyển dạng sinh học mạnh (khoảng 90%) khi lần đầu tiên qua gan thành các chất chuyển hóa có hoạt tính glucocorticosteroid thấp. Hoạt tính glucocorticosteroid của các chất chuyển hóa chính (6β-hydroxy-budesonid và 16α-hydroxy-prednisolone) thì ít hơn 1% so với hoạt tính đó của budesonid. Không có thông tin về bất cứ sự tương tác về chuyển hóa hoặc phản ứng dịch chuyển nào giữa formoterol và budesonid.

Thải trừ

Phần lớn liều formoterol được chuyển hóa qua gan sau đó bài tiết ra thận. Sau khi hít, 8-13% liều phóng thích của formoterol được bài tiết dưới dạng không chuyển hóa vào nước tiểu. Formoterol có độ thanh thải toàn thân cao (khoảng 1,4 L/phút) và thời gian bán thải pha cuối trung bình là 17 giờ.

Budesonid được thải trừ qua sự chuyển hóa chủ yếu bằng sự xúc tác bởi CYP3A4. Các chất chuyển hóa của budesonid được tiết ra nước tiểu ở dạng tự do hoặc dạng kết hợp. Chỉ có một lượng không đáng kể budesonid không đổi được tìm thấy trong nước tiểu. Budesonid có độ thanh thải toàn thân cao (khoảng 1,2 L/phút) và thời gian bán thải sau khi tiêm tĩnh mạch trung bình là 4 giờ.

Dược động học của budesonid hoặc formoterol ở bệnh nhân suy thận vẫn chưa biết. Nồng độ và thời gian tiếp xúc của budesonid và formoterol có thể tăng ở bệnh nhân có bệnh gan.

Tính tuyến tính/không tuyến tính

Nồng độ toàn thân của budesonid và formoterol tương quan tuyến tính với liều dùng.

5.3. Hiệu quả lâm sàng:

*Hen (suyễn)

Liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort

Tổng số 8.064 bệnh nhân hen nhẹ từ 12 tuổi trở lên đã tham gia trong 2 nghiên cứu mù đôi đánh giá hiệu quả và tính an toàn (nghiên cứu SYGMA 1 và SYGMA 2), trong đó 3.384 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort trong 12 tháng. Bệnh nhân tuyển chọn được yêu cầu là hen không được kiểm soát khi chỉ sử dụng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần hoặc hen được kiểm soát khi sử dụng liều thấp corticosteroid dạng hít hoặc thuốc đối kháng thụ thể leukotriene cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần.

Cả hai nghiên cứu so sánh liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort (Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg sử dụng khi có triệu chứng) với budesonid Turbuhaler 200 mcg (1 hít, 2 lần mỗi ngày) cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần. SYGMA 1 cũng so sánh liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần đơn lẻ.

Trong nghiên cứu SYGMA 1 và SYGMA 2, dựa trên đánh giá của nhân viên y tế trước khi tuyển bệnh, tương ứng 44,5% và 46,3% các bệnh nhân hen không được kiểm soát khi chỉ sử dụng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn, và 55,5% và 53,7% bệnh nhân hen được kiểm soát khi sử dụng liều thấp corticosteroid dạng hít hoặc thuốc đối kháng thụ thể leukotriene cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần. Ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu, bệnh nhân trong nghiên cứu SYGMA 1 và SYGMA 2 có độ tuổi trung vị tương ứng là 40 và 41 tuổi (khoảng tuổi trong cả hai nghiên cứu là từ 12 đến 85 tuổi), tương ứng 12,5% và 9,8% bệnh nhân ở độ tuổi vị thành niên (từ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi) và khoảng 7% và 9% bệnh nhân trên 65 tuổi, 87,0% và 84,3% bệnh nhân chưa từng hút thuốc, 10,3% và 13,1% bệnh nhân đã từng hút thuốc, 2,7% và 2,6% bệnh nhân hiện đang hút thuốc và 19,7% và 22,0% bệnh nhân đã từng trải qua một đợt kịch phát nặng trong vòng 12 tháng trước khi tuyển bệnh.

Trong nghiên cứu SYGMA 2, liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort được so sánh với liều duy trì budesonid Turbuhaler cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần về mặt giảm tỷ lệ các đợt kịch phát nặng (xem Bảng 1). Tác dụng bảo vệ bệnh nhân khỏi các đợt kịch phát nặng đạt được với mức liều trung vị giảm 75% tổng lượng ICS sử dụng và không cần tuân thủ điều trị như với liệu pháp điều trị duy trì bằng corticosteroid dạng hít. Nghiên cứu SYGMA 1 chỉ ra rằng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort giúp giảm đáng kể có ý nghĩa thống kê và ý nghĩa lâm sàng ở tỷ lệ các đợt kịch phát nặng hàng năm tới 64% so với nhóm sử dụng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần đơn lẻ (xem Bảng 1). Tỷ lệ các đợt kịch phát trung bình đến nặng hàng năm (60%) giảm tương tự tỷ lệ giảm các đợt kịch phát nặng hàng năm ((RR): 0,40 (khoảng tin cậy 95%: 0,32, 0,49), p <0,001).

Trong nghiên cứu SYGMA 1, liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort giúp kiểm soát triệu chứng hen hàng ngày hiệu quả hơn điều trị bằng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần đơn lẻ (OR: 1,14 (1,00 đến 1,30), p=0,046), dựa trên trung bình phần trăm số tuần hen được kiểm soát tốt tương ứng là 34,4% và 31,1%. Liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort kiểm soát triệu chứng hen thua kém hơn so với sử dụng liều duy trì budesonid Turbuhaler cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần (OR: 0,64 (khoảng tin cậy 95%: 0,57, 0,73; giới hạn dưới của khoảng tin cậy ≥ 0,8 cho so sánh không kém hơn)), dựa trên trung bình phần trăm số tuần hen được kiểm soát tốt tương ứng là 34,4% và 44,4%. Sự cải thiện trong kiểm soát hen (theo ACQ5) ở bệnh nhân sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort hiệu quả hơn so với ở các bệnh nhân chỉ sử dụng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần đơn lẻ (sự khác biệt ước tính: -0,15 (-0,20, -0,11), p < 0,001)). Theo chiến lược phân tích phân tầng đã định trước, ngoài các tuần hen được kiểm soát tốt, tất cả các kết quả về tính hiệu quả khác từ nghiên cứu này đều được xem xét về ý nghĩa thống kê danh nghĩa. Sự cải thiện kiểm soát hen thua kém hơn ở nhóm sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với sử dụng liều budesonid Turbuhaler duy trì cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần (sự khác biệt ước tính trong nghiên cứu SYGMA 1: 0,15 (0,10, 0,20); trong nghiên cứu SYGMA 2: 0,11 (0,07, 0,15); p< 0,001 trong cả hai nghiên cứu. Với cả hai so sánh, sự khác biệt trung bình trong hiệu quả điều trị dựa trên ACQ5 là không có ý nghĩa lâm sàng (được đánh giá bởi sự khác biệt lớn hơn hoặc bằng 0,5). Các kết quả này được quan sát thấy trong bối cảnh nghiên cứu lâm sàng được thiết kế với sự tuân thủ liều budesonid duy trì cao hơn đáng kể so với ở đời thực.

Trong nghiên cứu SYGMA, thay đổi chức năng phổi so với mức nền (chỉ số trung bình của thể tích thở ra gắng sức trong giây đầu tiên (FEV1) trước khi dùng thuốc giãn phế quản) tăng nhiều hơn có ý nghĩa thống kê ở những bệnh nhân sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với các bệnh nhân chỉ điều trị bởi thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần. Sự cải thiện này được quan sát thấy thấp hơn đáng kể có ý nghĩa thống kê ở bệnh nhân sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với sử dụng liều duy trì budesonid Turbuhaler cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần. Với cả hai so sánh, sự khác biệt trung bình trong hiệu quả điều trị là nhỏ (khoảng 30 đến 55 mL, tương đương xấp xỉ 2% so với mức nền).

Nhìn chung, kết quả các nghiên cứu SYGMA cho thấy liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort hiệu quả hơn điều trị bằng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần trên bệnh nhân hen nhẹ. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort có thể là một lựa chọn thay thế ở bệnh nhân hen nhẹ cần điều trị với corticosteroid đường hít.

– xem Bảng 1.

Image from Drug Label Content

Phân tích thời gian xuất hiện đợt kịch phát nặng đầu tiên trong nghiên cứu SYGMA 1 cho thấy khả năng gặp phải đợt kịch phát nặng cao hơn đáng kể có ý nghĩa thống kê khi sử dụng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần so với sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort trong thời gian 1 năm điều trị với mức giảm nguy cơ 56% (Tỷ lệ HR: 0,44 (0,33, 0,58); p<0,001). Không có sự khác biệt về khả năng gặp phải một đợt kịch phát nặng giữa nhóm sử dụng liệu pháp kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort và nhóm dùng liều duy trì budesonid cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần.

Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort

Hiệu quả và tính an toàn của Symbicort trong liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort đã được nghiên cứu trong 6 thử nghiệm lâm sàng sử dụng hai hàm lượng Symbicort Turbuhaler (80/4,5 mcg và 160/4,5 mcg) trên đối tượng các bệnh nhân hen. Tổng cộng có 14.219 bệnh nhân (1.134 bệnh nhân lớn tuổi, 11.144 bệnh nhân người lớn, 1.595 bệnh nhân trẻ vị thành niên và 345 trẻ em) được chọn ngẫu nhiên vào các nghiên cứu, trong đó 5.514 bệnh nhân được điều trị với liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort. Trong đó 7% tổng số bệnh nhân là người hút thuốc. So với tỷ lệ bệnh nhân thông thường trong thực tế, người có hút thuốc và người cao tuổi trong thử nghiệm không mang tính đại diện. Tuy nhiên, kết quả cho phân nhóm này hầu như phù hợp với kết quả của toàn bộ dân số nghiên cứu. Các bệnh nhân COPD đã được loại trừ.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort hiệu quả đáng kể so với các sản phẩm phối hợp liều cố định hoặc corticosteroid dạng hít liều cao hơn cùng với thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn hoặc tác dụng dài như là thuốc giảm triệu chứng (xem Bảng 2 và Bảng 3). Trong 5 nghiên cứu lâm sàng mù đôi, dài hạn, các bệnh nhân nhận được liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort không dùng các hít giảm triệu chứng trong 57% số ngày điều trị và sử dụng 0-2 hít giảm triệu chứng trong 87% số ngày điều trị.

– xem Bảng 2.

Image from Drug Label Content

– xem Bảng 3.

Image from Drug Label Content

Nghiên cứu 734 (SMILE)

Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, phân nhóm song song trong 12 tháng ở 3.394 bệnh nhân người lớn và trẻ vị thành niên tuổi từ 12 đến 89 mắc hen từ trung bình đến nặng. Nghiên cứu được so sánh 3 nhánh như sau:

1 Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort – Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg, 1 hít 2 lần mỗi ngày kèm hít thêm khi cần.

2 Symbicort 160/4,5 mcg, 1 hít 2 lần mỗi ngày cùng với formoterol Turbuhaler khi cần.

3 Symbicort 160/4,5 mcg, 1 hít 2 lần mỗi ngày cùng với terbutaline Turbuhaler khi cần.

Biến số hiệu quả chính, thời gian đến đợt kịch phát nặng đầu tiên, tăng đáng kể khi sử dụng Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với cả Symbicort + formoterol hoặc Symbicort + terbutaline (xem Bảng 2).

Số ngày sử dụng các steroid đường uống do các đợt kịch phát ít hơn ở nhóm Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort (tổng số 1.204 ngày so với tương ứng 2.063 và 2.755 ngày ở nhóm với Symbicort + formoterol hoặc Symbicort + terbutaline).

Hầu hết các biến số thứ cấp cho thấy tính hiệu quả hơn của Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với cả hai nhóm điều trị khác (xem Bảng 4). Số lượng hít thêm khi cần trung bình mỗi ngày ở nhóm Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort là 1,02 hít/ngày và tần suất sử dụng nhiều liều hít thêm khi cần là thấp hơn ở Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với hai nhóm điều trị khác.

– xem Bảng 4.

Image from Drug Label Content

Nghiên cứu đặc biệt chứng minh rằng cả hai thành phần budesonide và formoterol của Symbicort đều góp phần cải thiện khả năng kiểm soát hen thông qua sử dụng liệu Symbicort khi cần trong Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort.

Nghiên cứu 735 (COMPASS)

Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, phân nhóm song song trong vòng 6 tháng ở 3.335 bệnh nhân người lớn và trẻ vị thành niên tuổi từ 11 đến 83. Nghiên cứu so sánh theo 3 nhóm như sau:

1 Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort- Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg, 1 hít 2 lần mỗi ngày kèm hít thêm khi cần.

2 Seretide Inhaler 125/25, 2 hít 2 lần mỗi ngày cùng với terbutaline Turbuhaler khi cần.

3 Symbicort Turbuhaler 320/9 mcg, 1 hít hai lần mỗi ngày cùng với terbutaline Turbuhaler khi cần.

Biến hiệu quả chính, thời gian đến đợt kịch phát nặng đầu tiên, tăng đáng kể khi sử dụng Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với cả Seretide + terbutaline hoặc Symbicort ở liều duy trì cao hơn + terbutaline (xem Bảng 2).

Số ngày sử dụng các steroid đường uống do đợt kịch phát ít hơn ở nhóm Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với Seretide + terbutaline hoặc Symbicort + terbutaline (tổng số 619 ngày sử dụng so với tương ứng 1.132 và 1.044 ngày).

Kết quả từ các biến số thứ cấp, bao gồm chức năng phổi, trung bình sử dụng thuốc khi cần, thay đổi điểm số triệu chứng trung bình không khác nhau đáng kể ở nhóm Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort so với hai nhóm còn lại. Số lượng hít thêm khi cần trung bình mỗi ngày ở nhóm Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort là 1,02 hít/ngày.

Do liều trung bình hàng ngày ở nhóm sử dụng Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort thấp hơn so với ở nhóm Symbicort + terbulaline, nghiên cứu xác nhận lợi ích của liều Symbicort sử dụng khi cần.

Nghiên cứu 673 (STAY), Nghiên cứu 668 (STEP) và Nghiên cứu 667 (STEAM)

Trong các nghiên cứu 673, 668 và 667, Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort kéo dài thời gian đến đợt kịch phát đầu tiên so với Symbicort ở cùng liều duy trì cộng với terbutaline để giảm triệu chứng và so với liều budesonide duy trì cao hơn gấp 2 đến 4 lần cùng với terbutaline để giảm triệu chứng (xem Bảng 2). Triệu chứng và số lần sử dụng thuốc giảm triệu chứng giảm và chức năng phổi được cải thiện so với tất cả các nhóm điều trị khác (xem Bảng 5, Bảng 6 và Bảng 7).

– xem Bảng 5.

Image from Drug Label Content

– xem Bảng 6.

Image from Drug Label Content

– xem Bảng 7.

Image from Drug Label Content

Nghiên cứu 691 (COSMOS)

Một nghiên cứu ngẫu nhiên, nhãn mở, phân nhóm song song trong 12 tháng so sánh hiệu quả của Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort với Seretide cùng với Ventolin ở bệnh nhân hen người lớn và trẻ vị thành niên điều trị bằng steroid (N=2.143) tuổi từ 12 đến 84. Điều trị ngẫu nhiên bắt đầu với các liều duy trì được cố định trong khoảng thời gian 4 tuần. Sau đó trong 11 tháng tiếp theo, các liều duy trì được điều chỉnh đến mức liều thấp nhất cần thiết để kiểm soát triệu chứng.

– xem Bảng 8

Image from Drug Label Content

Nghiên cứu này chỉ ra rằng Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort hiệu quả hơn so với liệu pháp Seretide + Ventolin trong kiểm soát hen ở người lớn và trẻ vị thành niên. Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort kéo dài thời gian đến đợt kịch phát hen nặng đầu tiên, giảm tổng số đợt kịch phát hen nặng (xem Bảng 2 và Bảng 3), giảm sử dụng steroid đường uống để điều trị các đợt kịch phát hen nặng và giảm sử dụng liệu pháp khi cần so với Seretide ở tương đương mức liều corticosteroid hít hàng ngày.

Tính an toàn trong các nghiên cứu kết hợp

Liệu pháp điều trị duy trì và kháng viêm giảm triệu chứng bằng Symbicort có hồ sơ an toàn tương tự liệu pháp điều trị duy trì bằng budesonid và bằng Symbicort với việc giảm các tác dụng ngoại ý liên quan đến hen (suyễn).

Co thắt phế quản do tập luyện hoặc do dị ứng

Việc sử dụng Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg trong co thắt phế quản do tập luyện hoặc do dị ứng đã được nghiên cứu trong 3 thử nghiệm lâm sàng với các bệnh nhân hen nhẹ/hen không liên tục.

Nghiên cứu D5890L00032 là nghiên cứu (6 tuần, 3 nhánh điều trị ở 66 bệnh nhân người lớn và vị thành niên mắc hen nhẹ và co thắt phế quản do tập luyện) trong đó biến số chính là sự thay đổi trong mức giảm tối đa FEV1 sau tập thể dục được đo trước và sau 6 tuần điều trị. Nghiên cứu này cho thấy Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg, sử dụng 1 hít trước khi tập luyện cộng với hít thêm khi có triệu chứng giúp cải thiện kiểm soát hen bằng cách giảm co thắt phế quản do tập luyện theo cùng một mức độ như liều duy trì thường xuyên budesonide 400 mcg + terbutaline 0,5 mg khi cần, mặc dù liều steroid thấp hơn đáng kể. Cả hai phương pháp điều trị đều hiệu quả hơn so với terbutaline khi cần và khi dùng riêng lẻ.

Nghiên cứu AF-039-0001 là nghiên cứu (6 tháng, 2 nhánh điều trị trên 92 bệnh nhân người lớn và trẻ vị thành niên mắc hen nhẹ/hen không liên tục mà sử dụng thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn để giảm triệu chứng), trong đó biến số hiệu quả chính là sự thay đổi nồng độ Nitric oxit thở ra (FENO) trong hai nhóm điều trị trong suốt thời gian nghiên cứu. Nghiên cứu này cho thấy thành phần budesonid trong Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg sử dụng trước khi tập luyện và khi cần, làm giảm tình trạng viêm đường hô hấp và cải thiện chức năng hô hấp và chỉ ra tác động có lợi của thành phần budesonid khi sử dụng khi cần cùng với formoterol (để giảm triệu chứng) trong Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg.

Nghiên cứu D5890L00007 là nghiên cứu (3 nhóm, đối chứng giả dược, nghiên cứu bắt chéo trên 15 bệnh nhân người lớn mắc hen dị ứng nhẹ), trong đó biến số hiệu quả chính là thay đổi PD20 (liều kích thích gây giảm 20% FEV1) methacholine (MCh) trong mỗi giai đoạn điều trị. Nghiên cứu này cho thấy sử dụng thuốc sau 30 phút kích thích với tác nhân gây dị ứng liều thấp, Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg đã giảm tình trạng hen xấu đi do các thành phần gây dị ứng, và vẫn cải thiện chức năng phổi cơ bản, trong khi đó formoterol 6 mcg riêng lẻ chỉ ức chế sự gia tăng triệu chứng nhưng không bảo vệ khỏi tình trạng viêm đường hô hấp do dị ứng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng tình trạng xấu đi của hen, khi bị kích thích bởi liều thấp tác nhân gây dị ứng, được kiểm soát hiệu quả hơn bởi Symbicort Turbuhaler 160/4,5 mcg so với formoterol.

Liệu pháp điều trị duy trì bằng Symbicort

Các thử nghiệm lâm sàng ở người lớn cho thấy việc bổ sung formoterol vào budesonid giúp cải thiện các triệu chứng hen suyễn và chức năng phổi, và làm giảm các đợt kịch phát hen suyễn. Trong hai nghiên cứu 12 tuần, tác động trên chức năng phổi của Symbicort tương đương với tác động của các kết hợp dùng chung 2 đơn sản phẩm budesonid và formoterol và có hiệu quả hơn tác động của budesonid dùng riêng lẻ. Tất cả các nhánh điều trị đều sử dụng một thuốc chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần thiết. Không có dấu hiệu về sự suy giảm tác động điều trị hen khi dùng kéo dài.

Hai nghiên cứu trên trẻ em trong 12 tuần được tiến hành, trong đó 265 trẻ em độ tuổi 6-11 đã được điều trị với liều duy trì Symbicort (2 liều hít 80/4,5 mcg/liều, 2 lần/ngày) và một chất chủ vận β2 tác dụng ngắn khi cần thiết. Kết quả trong cả hai nghiên cứu cho thấy chức năng phổi đã được cải thiện và bệnh nhân dung nạp tốt với trị liệu so với khi dùng liều budesonid Turbuhaler tương ứng.

*COPD

Tác động của Symbicort trên chức năng phổi và tỉ lệ các cơn kịch phát (được xác định bằng số đợt dùng steroid đường uống và/hoặc số đợt dùng kháng sinh và/hoặc số lần nhập viện) ở các bệnh nhân COPD trung bình đến nặng đã được đánh giá trong 2 nghiên cứu 12 tháng (nghiên cứu 629 và 670). Tiêu chí thu nhận của cả hai nghiên cứu là FEV1< 50% so với giá trị bình thường dự đoán trước khi dùng thuốc giãn phế quản. Khi chọn vào nghiên cứu, trung vị của thể tích thở ra gắng sức trong giây đầu (median FEV1) sau khi dùng thuốc giãn phế quản là 42% so với giá trị bình thường dự đoán.

Số đợt kịch phát trung bình mỗi năm (được định nghĩa như trên) giảm đáng kể ở nhóm dùng Symbicort so với nhóm chỉ dùng formoterol hoặc nhóm dùng giả dược (tỉ lệ trung bình 1,4 so với 1,8-1,9 ở nhóm dùng giả dược/formoterol). Số ngày trung bình dùng corticosteroid đường uống cho mỗi bệnh nhân trong suốt 12 tháng giảm nhẹ ở nhóm dùng Symbicort (7-8 ngày/bệnh nhân/năm so với 11-12 ngày ở nhóm dùng giả dược và 9-12 ngày ở nhóm dùng formoterol). Symbicort không vượt trội hơn so với nhóm chỉ điều trị bằng formoterol về các thay đổi trong các thông số chức năng phổi như FEV1.

5.4. Dữ liệu tiền lâm sàng:

Độc tính được quan sát trong các nghiên cứu trên súc vật đối với budesonide và formoterol, được dùng phối hợp hay riêng lẻ, là các tác động do sự gia tăng tác động dược lý.

Các nghiên cứu về sinh sản trên súc vật cho thấy các corticosteroid như budesonide gây dị dạng (khe hở vòm miệng, biến dạng khung xương). Tuy nhiên, các kết quả thực nghiệm trên các súc vật này có vẻ không liên quan đến người ở các liều khuyến cáo. Các nghiên cứu về sự sinh sản trên súc vật đối với tormoterol cho thấy có sự giảm tương đối khả năng thụ tinh ở chuột đực khi dùng liều toàn thân cao, mất sự làm tổ cũng như giảm khả năng sống còn sau khi sinh non và giảm trọng lượng chuột lúc sinh ở liều toàn thân cao hơn nhiều so với liều dùng trong lâm sàng. Tuy nhiên, các kết quả thực nghiệm trên các súc vật này hình như không liên quan với người.

*Lưu ý:

Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ

Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com

6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:

6.1. Danh mục tá dược:

Tá dược: Lactose monohydrate 730mcg/ liều.

6.2. Tương kỵ :

Không áp dụng.

6.3. Bảo quản:

Không bảo quản trên 30°C. Bảo quản trong bao bì đậy kín.

6.4. Thông tin khác :

Thuốc bột màu trắng, phần lớn ở dạng hạt tròn được chứa trong một ống hít đa liều (Turbuhaler). Ống hít được làm bằng vật liệu nhựa có nắp bảo vệ màu trắng và phần đế ống hít màu đỏ. Trên thân ống hít có cửa sổ chỉ thị liều bắt đầu bằng số 60 hoặc 120 tùy theo dạng đóng gói khi ống hít chưa sử dụng.

6.5 Tài liệu tham khảo:

Dược Thư Quốc Gia Việt Nam

HDSD Thuốc Symbicort Turbuhaler do AstraZeneca AB sản xuất (2017).

7. Người đăng tải /Tác giả:

Bài viết được sưu tầm hoặc viết bởi: Bác sĩ nhi khoa – Đỗ Mỹ Linh.

Kiểm duyệt , hiệu đính và đăng tải: PHARMOG TEAM