Paclitaxel – Anzatax

Thuốc ANZATAX là thuốc gì ? Dưới đây là nội dung tờ hướng dẫn sử dụng gốc của Thuốc ANZATAX (Thông tin bao gồm liều dùng, cách dùng, chỉ định, chống chỉ định, thận trọng, dược lý…)

1. Tên hoạt chất và biệt dược:

Hoạt chất : Paclitaxel

Phân loại: Thuốc chống ung thư, thuộc nhóm taxan.

Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)

Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): L01CD01.

Brand name: ANZATAX

Generic : Hospira Australita Pty Ltd.

2. Dạng bào chế – Hàm lượng:

Dạng thuốc và hàm lượng

Dung dịch tiêm đậm đặc Paclitaxel 6mg/ml

Hộp 1 lọ 25ml; Dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền

Hộp 1 lọ 16,7ml; Dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền

Hộp 1 lọ 5ml; Dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền

Thuốc tham khảo:

ANZATAX 30mg/5ml
Mỗi ml dung dịch đậm đặc pha tiêm truyền có chứa:
Paclitaxel …………………………. 6 mg
Tá dược …………………………. vừa đủ (Xem mục 6.1)

3. Video by Pharmog:

[VIDEO DƯỢC LÝ]

————————————————

► Kịch Bản: PharmogTeam

► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog

► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/

► Group : Hội những người mê dược lý

► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/

► Website: pharmog.com

4. Ứng dụng lâm sàng:

4.1. Chỉ định:

Chỉ định điều trị chủ yếu ung thư buồng trứng tiến triển phối hợp với các thuốc Platinum.

Chỉ định ung thư buồng trứng di căn và ung thư vú di căn sau khi đã điều trị không hiệu quả với các liệu pháp thông thường.

Chỉ định ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC).

Chỉ định điều trị hỗ trợ ung thư vú có hạch dương tính sau khi dùng doxorubicin và cyclophosphamide.

4.2. Liều dùng – Cách dùng:

Cách dùng :

Anzatax chỉ được dùng qua đường truyền tĩnh mạch. Không dùng tiêm vào tủy sống , màng phổi hay màng bụng.

Anzatax phải được pha loãng trước khi truyền tĩnh mạch với dung dịch Glucose 5% hoặc NaCl 0,9%. Dung dịch sau khi pha loãng có nồng độ sau cùng từ 0,3-1,2mg/ml. Chai đựng dung dịch sau khi pha loãng xoay vòng nhẹ để phân tán đều Paclitaxel. Không được lắc.

Tránh việc tiếp xúc dung dịch Anzatax với dụng cụ, dây truyền hay máy móc làm bằng nhựa PVC có chất làm dẻo trong khi pha chế dịch truyền. Pha chế và tồn trữ dung dịch Paclitaxel đã pha loãng trong chai bằng thủy tinh.

Dung dịch Paclitaxel phải được truyền từ dây truyền tráng polyethylen, dùng bơm IMED.

Mặc dù dung dịch Anzatax pha chế như trên đây ổn định về mặt hóa học trong vòng 48h ở nhiệt độ phòng, dung dịch tiêm truyền phải được sử dụng ngay sau khi pha do không chứa chất kháng khuẩn. Việc truyền dịch phải được thực hiện trong vòng 24h sau khi pha và loại bỏ phần không dùng đến theo hướng dẫn.

Liều dùng:

Tất cả bệnh nhân phải được chỉ định dùng thuốc trước khi cho sử dụng Paclitaxel để phòng ngừa các phản ứng quá mẫn cảm. Trước mỗi chu kỳ điều trị, bệnh nhân phải được dùng các thuốc sau:

Dexamethasone 20mg uống 12 giờ và 6 giờ trước khi bắt đầu tiêm truyền Paclitaxel.

Promethazin 25 – 50mg hay các chất kháng H1 thích hợp khác tiêm tĩnh mạch 30 phút trước khi bắt đầu tiêm truyển Paclitaxel.

Cimetidine 300mg hay Ranitidine 50mg tiêm truyển tĩnh mạch trong 15 phút, 30 phút trước khi bắt đầu tiêm truyền Paclitaxel.

Để điều trị đầu tay ung thư buồng trứng, Paclitaxel được chỉ định dùng với liều 175mg/m2, tiêm truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, tiếp theo là Cisplatin 75mg/m2. Phải tiêm truyền lặp lại cách mỗi 3 tuần.

Để điều trị thứ nhì ung thư buồng trứng di căn hoặc ung thư vú di căn, Paclitaxel được chỉ định liều đơn 175mg/m2 tiêm truyền tĩnh mạch trong 3 giờ. Việc tiêm truyền tĩnh mạch phải lặp lại cách mỗi 3 tuần nếu thuốc được dung nạp. Bệnh nhân dung nạp được điều trị Paclitaxel tới 9 chu kỳ, nhưng dợt điều trị tối ưu còn chưa được xác định.

Để điểu trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ thứ phát hay tiên phát, liều khuyến cáo của Paclitaxel là 175mg/m2 tiêm truyền tĩnh mạch trong 3 giờ sau đó dùng Cisplatin 80 mg/m2 da, khoảng cách giữa các lần dùng là 3 tuần.

Để điều trị ung thư vú có hạch dương tính, liều khuyến cáo của Paclitaxel là 175mg/m2 tiêm truyền tĩnh mạch trong 3 giờ với khoảng cách 3 tuần trong 4 đợt điều trị sau khi dùng kết hợp Doxorubicin và Cyclophosphamide.

Chỉ lặp lại đợt điều trị với Paclitaxel khi bệnh nhân có lượng bạch cầu trung tính tối thiểu là 1,5 X 109 tế bào/L và lượng tiểu cầu tối thiểu là 100 X 109 tế bào/L. Nếu xảy ra chứng giảm bạch cầu trung tính nghiêm trọng (lượng bạch cầu trung tính ít hơn 0,5 X 109 tế bào/L trong 7 ngày hay hơn), hay bệnh thần kinh ngoại biên nặng trong thời gian điều trị với Paclitaxel, phải giảm 20% liều Paclitaxel trong các đợt điều trị kế tiếp.

4.3. Chống chỉ định:

Dung dịch tiêm truyền đậm đặc không được dùng cho:

Những bệnh nhân được biết có phản ứng quá mẫn với Paclitaxel.

Những bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với PEG 35 castor oil (Cremophor EL) hay các thuốc có thành phần PEG 35 castor oil (như dung dịch tiêm đậm đặc cyclosporin và dung dịch tiêm đậm đặc teniposide).

Những bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính trầm trọng.

4.4 Thận trọng:

Việc chỉ định paclitaxel chỉ dành cho các chuyên viên có kinh nghiệm trong việc sử dụng các tác nhân hóa trị liệu chống ung thư.

Chuẩn bị điều trị: Để giảm thiểu xảy ra các phản ứng quá mẫn do việc phóng thích Histamine, bệnh nhân phải được cho dùng thuốc để chuẩn bị trước mỗi chu kỳ điều trị với PACLITAXEL.

Sự giảm bạch cầu trung tính: (xem phần tác dụng không mong muốn). Do độc tính liên quan đến liều dùng của Paclitaxel là ức chế tủy xương phụ thuộc liều (chủ yếu là giảm bạch cầu trung tính), nên Paclitaxel phải được sử dụng thận trọng tối đa cho bệnh nhân đã điều trị trước đó với tình trạng bạch cầu thấp hơn 1,5 * 109 tố bào/ L (1500 tế bào/ mm3). Nên theo dõi thường xuyên việc đếm tế bào máu trong khi điểu trị với Paclitaxel. Không nên dùng thêm chu kỳ Paclitaxel cho đến khi lượng bạch cầu trung tính cao hơn 1,5 X109 tế bào/ L (1.500 tế bào/ mm3) và lượng tiểu cầu lớn hơn 100 * 109 tế bào/ L (100.000 tế bào/ mm3).

Các trạng thái bất thường: Hiếm khi có bất thường nghiêm trọng xảy ra ở bệnh nhân dùng Paclitaxel.

Tiêu hóa: Với các bệnh nhân điều trị với Paclitaxel cho biết có cơn đau bụng hoặc dấu hiệu hay triệu chứng nào khác, cần cảnh giác về tính trạng thủng ruột.

Tính sinh ung thư, sính đột biến, suy yếu khả năng sinh sản: Hiện chưa có các nghiên cứu khảo sát vể khả năng sinh ung thư của Paclitaxel, tuy nhiên các thuốc tương tự với Paclitaxel là những chất sinh ung thư.

Cách sử dụng: Chỉ được dùng Paclitaxel qua đường truyền tĩnh mạch, không được tiêm thuốc qua tủy sống, màng phổi hay màng bụng. Dung dịch tiêm đậm đặc ANZATAX phải được pha loãng trước khi tiêm truyền tĩnh mạch. Trước khi tiêm truyền, phải đảm bảo là đã đặt ống dò vào đúng vị tri, nếu không việc tràn dịch ra ngoài mạch có thể xảy ra và gây hoại tử mô và viêm tắc tính mạch (xem liều lượng và cách sử dụng).

Suy gan và thận: Ảnh hưởng của tình trạng gan và thận bị tổn thương trên tính chất dược dộng học của Paclitaxel chưa được xác định.

Hạ huyết áp và tim đập chậm: Bệnh nhân có thể bị hạ huyết áp và tim đập chậm khi đang sử dụng Paclitaxel nhưng thường chưa đến mức cẩn phải điều trị. Phải thường xuyên theo dõi các dấu hiệu lâm sàng, đặc biệt trong giờ truyền dịch đầu tiên.

Hệ thần kinh: Bệnh lý thần kinh ngọai biên thường được ghi nhận ở bệnh nhân đang sử dụng Paclitaxel và tình trạng có tính chất lệ thuộc liều dùng. Trong trường hợp này, cần giảm 20% liều lượng cho bệnh nhân (xem phần tác dụng phụ). Bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, dùng Paclitaxel kết hợp cisplatin gây độc tính thần kinh cao hơn ở bệnh nhân dùng đơn liều Paclitaxel

Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.

Bản thân Paclitaxel không gây ảnh hưởng đến sự tập trung khi lái xe hay thao tác máy.

Tuy nhiên, do thuốc có chứa alcool nên phải thận trọng không nên lái xe hay thao tác máy ngay sau khi điều trị vì có thể gây buồn ngủ.

Người lái xe hay phải vận hành máy móc cần phải được lưu ý về điều này.

4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:

Xếp hạng cảnh báo

AU TGA pregnancy category: D

US FDA pregnancy category: D

Thời kỳ mang thai:

Các thử nghiệm cho thấy, Paclitaxel có độc tính trên phôi thai và bào thai thỏ với liều tiêm tĩnh mạch 3mg/Kg (33mg/m2) trong thời kỳ phôi thai phát triển. Paclitaxel có độc tính trên bào thai chuột cống ở liều 1 mg/Kg (6mg/m2). Việc khảo sát cho thấy không có dấu hiệu biến đổi rõ ở mô mềm bên ngoài hay cấu trúc xương. Không có dữ liệu về sử dụng Paclitaxel cho phụ nữ có thai, do đó chống chỉ định cho phụ nữ có thai.

Thời kỳ cho con bú:

Bằng chứng các loại thuốc khác đưa đến việc cảnh giác thuốc có thể vào sữa mẹ, tuy điều này chưa được xác định. Do thuốc có thể gây ra nhiều phản ứng có hại trầm trọng cho trẻ, người mẹ đang điều trị Paclitaxel phải ngưng việc cho con bú.

4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):

Quá mẫn cảm: Các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng chiếm tỉ lệ 2% bệnh nhân diều trị với Paclitaxel cho dù đã được chuẩn bị trước với Corticosteroid, thuốc kháng Histamin và các thuốc kháng thụ thể H2.

Huyết học: Độc tính giới hạn liều của Paclitaxel là ức chế tủy xương. Phản ứng có hại về mặt huyết học thường gặp nhất là chứng giảm bạch cầu trung tính phụ thuộc liều với tình trạng trầm trọng hơn sau 24 giờ so với tình trạng sau 3 giờ tiêm truyền. Nên theo dõi thường xuyên việc đếm tế bào máu trong khi điều trị với Paclitaxel.

Sự nhiễm trùng: Sự giảm bạch cầu trung tính kèm theo sốt xuất hiện ở 5% các đợt điều trị và 30% các đợt điều trị có liên quan dến một giai đoạn nhiễm trùng. Thường gặp nhất là nhiễm trùng đường hỗ hấp trên, đường tiểu và nhiễm trùng máu. Trong các thử nghiệm lâm sàng pha II, năm đợt nhiễm trùng đã dẫn đến tử vong.

Thần kinh học: Bệnh lý thần kinh ngoại biên phụ thuộc liều, thường biểu hiện dưới dạng tê nhẹ đã được ghi nhận ở 60% các bệnh nhân với các liểu chỉ định ở giai đoạn I của độc tính, 10% ở giai đoạn II và 2% ở giai đoạn III. Chỉ xảy ra một ít trường hợp với triệu chứng thần kinh nghiêm trọng, thường là với bệnh nhân sử dụng liều cao Paclitaxel. Các triệu chứng trở nên nặng hơn khi bệnh nhân sử dụng lại Paclitaxel. Cần giảm 20% liều cho bệnh nhân có bệnh lý thần kinh ngoại biên.

Hệ tim mạch: Hạ huyết áp do truyển dịch Paclitaxel được ghi nhận ở 25% các bệnh nhân và chứng tim đập chậm ở 12% bệnh nhân, thưởng trong thời gian sử dụng thuốc. Phần lớn các vấn đề về tim mạch thường không có triệu chứng và thường không phải điều trị. Tuy vậy các phản ứng quá mẫn cảm nặng thường đưa đến tác dụng hạ huyết áp nghiêm trọng và cần đến các biện pháp điều trị. Phải thường xuyên theo dõi các dấu hiệu lâm sàng, đặc biệt trong giờ truyền dịch đầu tiên.

Gan: Việc tăng các Enzym ở gan (Bilirubine 8% bệnh nhân, phosphat kiềm 23%, aspartate transaminase (AST (SGOT)) 16% Và Alanine transaminase (ALT (SGPT)) 33%) đã được ghi nhận ở phần lớn bệnh nhân có chức năng gan bình thường đã trị liệu với Paclitaxel. Phải sử dụng thận trọng Paclitaxel cho các bệnh nhân bị suy giảm chức năng gan.

Đau nhức khớp và cơ.

Hệ tiêu hóa: Bệnh nhân cũng thường phải chịu các tác dụng phụ về tiêu hóa từ nhẹ đến trung bình như nôn ói (53%), tiêu chảy (26%) và viêm niêm mạc (26%). Đã có một số trường hợp bị thủng ruột trong khi điều trị với Paciitaxel. Phải cảnh giác để loại bỏ nguy cơ này khi thấy bệnh nhân đang sử dụng Paclitaxel có triệu chứng đau bụng.

Các phản ứng chỗ tiêm: Có thể xảy ra viêm tĩnh mạch sau khi tiêm truyền Paclitaxel. Chỉ được dùng Paclitaxel qua đường truyền tĩnh mạch. Dung dịch tiêm đậm đặc ANZATAX phải được pha loãng trước khi tiêm truyền tĩnh mạch. Dung dịch sau khi pha loãng có nồng độ sau cùng từ 0,3 -1,2 mg/mL. Sau khi pha, các dung dịch có thể sử dụng được trong vòng 27 giờ ở nhiệt độ môi trường (25°C) và có ánh sáng. Dung dịch sau khi pha loãng không được dể trong tủ lạnh.

Các phản ứng khác: Rụng tóc, thay đổi tạm thời ở móng và da.

Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:

Tất cả phương tiện và thuốc men cần thiết cho cấp cứu hồi sức (adrenalin, corticoid, oxygen, dịch truyền, máy trợ tim – hô hấp…) cần phải sẵn sàng.

Trong trường hợp có bệnh thần kinh gây rối loạn vận động thì phải ngừng thuốc, hoặc có thể giảm liều 20%.

Có thể tiếp tục dùng thuốc cho người bệnh bị blốc nhĩ – thất cấp I và phải theo dõi điện tâm đồ. Ở người bệnh có rối loạn dẫn truyền nặng hơn thì phải ngừng dùng paclitaxel và cần điều trị trợ tim thích hợp.

Ở bệnh nhân có triệu chứng mẫn cảm nghiêm trọng với paclitaxel, dừng tiêm truyền thuốc kết hợp với các biện pháp điều trị triệu chứng tích cực. Các biện pháp này thường bao gồm sử dụng epinephrin, kháng histamin hay corticosteroid trong trường hợp cần thiết.

4.8 Tương tác với các thuốc khác:

Cisplatin: việc sử dụng cisplatin trước khi điều trị với Paclitaxel đưa đến tình trạng ức chế tủy xương nặng hơn so với tình trạng sử dụng Paclitaxel trước Cìsplatin. Trong số các bệnh nhân dùng Cisplatin trước khi điều trị với Paclitaxel, có khoảng 33% bị giảm mức thanh thải Paclitaxel.

Kétoconazole: do Kétoconazole có thể ngăn chặn sự chuyển hóa Paclitaxel, bệnh nhân dùng Paclitaxel và Kétoconazole phải được theo dõi chặt chẽ hoặc nên tránh việc phối hợp các thuốc này.

Các thuốc chuyển hóa ở gan: phải thận trọng khi sử dụng đồng thời các thuốc chuyển hóa ở gan (như Erythromycin), do các thuốc này có thể ngăn chặn sự chuyển hóa Paclitaxel.

4.9 Quá liều và xử trí:

Cho đến nay chưa có cách điều trị chuyên biệt cho việc sử dụng quá liều Paclitaxel. Các hậu quả có thể xảy ra do việc sử dụng quá liều là viêm niêm mạc, ức chế nặng tủy xương và độc tính thần kinh ngoại biên và phải cần điều trị hỗ trợ.

5. Cơ chế tác dụng của thuốc :

5.1. Dược lực học:

Paclitaxel là tác nhản chống u bướu tân sinh tác dụng lên hệ thống vi quản. Thuốc giúp cho sự hình thành vi quản bằng cách thúc đẩy quá trình tạo cao phân tử của tubulin, một đơn vị nhỏ protein của vi quản trong giai đoạn gián phân, ngay cả khi không có sự hiện diện của các chất trung gian thường cần thiết cho sự hình thành vi quản (như guanisin triphosphate – GTP), do đó đưa đến sự hình thành các vi quản bền vững và không có chức năng. Tuy cơ chế hoạt động chính xác chưa được hoàn toàn nắm vững, Paclitaxel phá vỡ sự cân bằng động học trong hệ thống ví quản và chặn đứng tế bào ở giai đoạn cuối pha G2 và pha M của chu kỳ tế bào, ngăn chặn sự sinh sản tế bào và gây tổn hại đến chức năng của mô thần kinh.

Chống ung thư, điều chỉnh đáp ứng miễn dịch, kìm tế bào : nhóm Taxone. Paclitaxel là một tác nhân mới, ức chế sự phân rã mạng lưới vi thể của thoi nhiễm sắc ; nó kích thích quá trình ghép các dimer của vi ống thành mạng lưới vi thể và ổn định mạng lưới vi thể bằng cách ngăn chặn quá trình tháo xoắn của chúng. Tính ổn định này ức chế sự tái tổ chức năng lượng bình thường của mạng lưới vi thể, một hiện tượng chủ yếu của chức năng sống của tế bào trong tiến trình gian kỳ và gián phân.

Ngoài ra, paclitaxel còn gây sự hình thành không bình thường các nhóm hay bó của mạng lưới vi thể trong suốt chu kz của tế bào, và tổ chức quá trình phân chia thể sao của mạng lưới vi thể trong sự gián phân.

Sự dung nạp và hiệu lực của Paclitaxel (135 mg/m2 trong 24 giờ), sau đó dùng cisplatine (75 mg/m2) đã được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi có kiểm soát (đối chiếu với cyclophosphamide 750 mg/m2, cisplatine 75 mg/m2), nghiên cứu GOG 111/BMS CA 139-022. Nghiên cứu này được thực hiện trên 400 bệnh nhân bị ung thư buồng trứng nguyên phát với bệnh đã tiến triển, có bướu tồn lưu > 1 cm) hay có di căn.

Kết quả ghi nhận ở nhóm dùng Paclitaxel có hiệu quả tốt hơn đáng kể về thời gian kìm không cho ung thư phát triển (trên 3,5 tháng) và thời gian kéo dài sự sống (trên 11 tháng). Về dung nạp thuốc thì tương tự nhau giữa hai nhóm.

Paclitaxel, với liều 175 mg/m2, được truyền tiếp theo đó bằng cisplatine 80 mg/m2 được đánh giá qua 2 công trình nghiên cứu giai đoạn III ở những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa (367 bệnh nhân điều trị bằng Paclitaxel); cả hai đều là thử nghiệm ngẫu nhiên, trong đó một được so sánh với điều trị bằng cisplatine với liều 100 mg/m2, một sử dụng téniposide liều 100 mg/m2 sau đó tiếp tục bằng cisplatine liều 80 mg/m2 như là chất đối chiếu (có 376 bệnh nhân được dùng thuốc đối chiếu). Kết quả tương đương nhau giữa các thử nghiệm. Đối với tiêu chuẩn đánh giá đầu tiên về ước lượng tử vong, giữa nhóm dùng Paclitaxel và nhóm dùng thuốc đối chiếu không có sự khác biệt đáng kể (thời gian kéo dài sự sống trung bình từ 8,1 đến 9,5 tháng đối với nhóm dùng Paclitaxel, 8,6 đến 9,9 tháng đối với nhóm dùng thuốc đối chiếu). Tương tự, thời hạn kéo dài cuộc sống mà ung thư không phát triển cũng không khác nhau đáng kể giữa các nhóm. Có một khác biệt đáng kể trên phương diện đáp ứng lâm sàng. Các kết quả khảo sát trên chất lượng sống cho thấy dùng Paclitaxel có lợi do ít làm mất cảm giác ngon miệng và ít gây các bệnh lý thần kinh ngoại biên.

Sự dung nạp và hiệu lực của Paclitaxel (135mg/m2 trong 24 giờ), sau đó dùng cisplatine (75mg/m2 ) đã được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi có kiểm soát (đối chiếu với cyclophosphamide 750mg/m2 , cisplatine 75mg/m2), nghiên cứu GOG 111/BMS CA 139-022. Nghiên cứu này được thực hiện trên 400 bệnh nhân bị ung thư buồng trứng nguyên phát với bệnh đã tiến triển, có bướu tồn lưu > 1cm) hay có di căn.

Kết quả ghi nhận ở nhóm dùng Paclitaxel có hiệu quả tốt hơn đáng kể về thời gian kìm không cho ung thư phát triển (trên 3,5 tháng) và thời gian kéo dài sự sống (trên 11 tháng). Về dung nạp thuốc thì tương tự nhau giữa hai nhóm.

Paclitaxel, với liều 175mg/m2 , được truyền tiếp theo đó bằng cisplatine 80mg/m2 được đánh giá qua 2 công trình nghiên cứu giai đoạn III ở những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa (367 bệnh nhân điều trị bằng Paclitaxel); cả hai đều là thử nghiệm ngẫu nhiên, trong đó một được so sánh với điều trị bằng cisplatine với liều 100mg/m2 , một sử dụng téniposide liều 100mg/m2 sau đó tiếp tục bằng cisplatine liều 80mg/m2 như là chất đối chiếu (có 376 bệnh nhân được dùng thuốc đối chiếu). Kết quả tương đương nhau giữa các thử nghiệm. Ðối với tiêu chuẩn đánh giá đầu tiên về ước lượng tử vong, giữa nhóm dùng Paclitaxel và nhóm dùng thuốc đối chiếu không có sự khác biệt đáng kể (thời gian kéo dài sự sống trung bình từ 8,1 đến 9,5 tháng đối với nhóm dùng Paclitaxel, 8,6 đến 9,9 tháng đối với nhóm dùng thuốc đối chiếu). Tương tự, thời hạn kéo dài cuộc sống mà ung thư không phát triển cũng không khác nhau đáng kể giữa các nhóm. Có một khác biệt đáng kể trên phương diện đáp ứng lâm sàng. Các kết quả khảo sát trên chất lượng sống cho thấy dùng Paclitaxel có lợi do ít làm mất cảm giác ngon miệng và ít gây các bệnh lý thần kinh ngoại biên.

Cơ chế tác dụng:

Paclitaxel là một trong những loại thuốc cytoskeletal nhắm tubulin . Tế bào Paclitaxel được điều trị có những khiếm khuyết trong lắp ráp phân bào trục chính, sự phân ly NST và phân chia tế bào. Không giống như các loại thuốc tubulin mục tiêu khác như colchicine ức chế vi ống lắp ráp, paclitaxel ổn định các vi ống polymer và bảo vệ nó từ tháo gỡ. Nhiễm sắc thể là như vậy, không thể đạt được một cấu hình metaphase trục chính. Khối này tiến triển của quá trình nguyên phân và kích hoạt kéo dài của các trạm kiểm soát phân bào gây apoptosishoặc đảo chiều với G-giai đoạn của chu kỳ tế bào không phân chia tế bào.

Khả năng của paclitaxel để ức chế chức năng trục chính thường là do đàn áp của động lực microtubule, nhưng các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng sự đàn áp của động lực xảy ra ở nồng độ thấp hơn so với những người cần thiết để ngăn chặn quá trình nguyên phân. Ở nồng độ điều trị cao hơn, paclitaxel xuất hiện để ngăn chặn microtubule đội từ trung thể, một quá trình thường được kích hoạt trong quá trình nguyên phân. Paclitaxel gắn vào tiểu đơn vị beta-tubulin của vi ống.

[XEM TẠI ĐÂY]

5.2. Dược động học:

Sau đây là các thông số dược dộng học xác định được ở những bệnh nhân được cho sử dụng những liều 135 và 175mg/m2 sau khi tiêm truyền tĩnh mạch Paclitaxel được 3 giờ và 24 giờ:

Thời gian bán thải trung bình pha cuối: 3,0-52,7 giờ.

Độ thanh thải toàn thân: 11,6 – 24,0 L/giờ/ m2.

Thể tích phân bố ở giai đoạn ổn định: 198 – 688 L/m2.

Chỉ định cho thấy sự phân tán rộng rãi của Paclitaxel bên ngoài hệ thống mạch máu hoặc sự gắn kết mô. Sau dây là các trị số trung bình của các thông số dược động học đã được ghi nhận sau 3 giờ tiên truyền 175mg/m2 Paclitaxel:

Thời gian bán thải trung bình pha cuối: 9,9 giờ.

Độ thanh thải toàn thân: 12,4 L/giờ/m2.

Tỉ lệ gắn kết Protein huyết thanh của Paclitaxel là 89%

Gan được xem là nơi chuyển hóa chủ yếu Paclitaxel. Tỉ lệ trung bình lượng thuốc nguyên vẹn tích tụ trong nước tiểu được ghi nhận là 1,3 -12,6% liều dùng

5.3 Giải thích:

Chưa có thông tin. Đang cập nhật.

5.4 Thay thế thuốc :

Chưa có thông tin. Đang cập nhật.

*Lưu ý:

Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ

Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com

6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:

6.1. Danh mục tá dược:

Macrogolglycerol ricinoleate, Ethanol, anhydrous, Citric acid, anhydrous

6.2. Tương kỵ :

Do trong thành phần tá dược của thuốc có chứa huile de ricin polyoxyethylene, không nên pha loãng, bảo quản hay chứa thuốc trong các dụng cụ plastic loại PVC (vì có thể phóng thích DEHP).

6.3. Bảo quản:

Các lọ thuốc chưa pha loãng phải để trong hộp, ở nơi có nhiệt độ 15 – 25 oC, tránh ánh sáng mặt trời. Pha loãng trong các dung dịch glucose 5% hoặc natri clorid 0,9% đến nồng độ 0,3 – 1,2 mg/ml, ổn định trong 3 ngày ở nhiệt độ phòng (25 oC).

Bảo quản thuốc chưa pha loãng trong tủ lạnh thì có thể bị tủa. Nhưng nếu đưa lọ thuốc có tủa ra nhiệt độ phòng mà tủa tan dù có hay không lắc thì chất lượng thuốc vẫn tốt. Nếu thuốc vấn đục hay có tủa thì phải loại bỏ.

Để thuốc vào tủ đông lạnh không làm ảnh hưởng đến chất lượng thuốc.

6.4. Thông tin khác :

An toàn tiền lâm sàng

Khả năng gây ung thư của Paclitaxel chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, paclitaxel là một tác nhân gây ung thư và độc tính trên gen do cơ chế tác động dược lực của thuốc. Paclitaxel được ghi nhận gây đột biến in vitro và in vivo trong các thử nghiệm trên tế bào của động vật hữu nhũ.

6.5 Tài liệu tham khảo:

HDSD Thuốc Anzatax 300mg/50ml do Hospira Australia Pty Ltd sản xuất (2011).

7. Người đăng tải /Tác giả:

Bài viết được sưu tầm hoặc viết bởi: Bác sĩ nhi khoa – Đỗ Mỹ Linh.

Kiểm duyệt , hiệu đính và đăng tải: PHARMOG TEAM