Liraglutide – Victoza

Thuốc VICTOZA là thuốc gì ? Dưới đây là nội dung tờ hướng dẫn sử dụng gốc của Thuốc VICTOZA (Thông tin bao gồm liều dùng, cách dùng, chỉ định, chống chỉ định, thận trọng, dược lý…)

1. Tên hoạt chất và biệt dược:

Hoạt chất : Liraglutide

Phân loại: Thuốc điều trị tiểu đường. Các Incretin

Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)

Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): A10BJ02.

Brand name: VICTOZA

Hãng sản xuất : Novo Nordisk A/S – Đan Mạch

2. Dạng bào chế – Hàm lượng:

Dạng thuốc và hàm lượng

Dung dịch tiêm: hộp 1 bút tiêm nạp sẵn thuốc x 3mL.

Mỗi mL: Liraglutide (chất tương tự peptide-1 giống glucagon người (GLP-1) sản xuất bằng kỹ thuật DNA tái tổ hợp trong tế bào Saccharomyces cerevisiae) 6mg.

Thuốc tham khảo:

VICTOZA 6 mg/ml
Mỗi ml dung dịch tiêm có chứa:
Liraglutide …………………………. 6 mg
Tá dược …………………………. vừa đủ (Xem mục 6.1)

3. Video by Pharmog:

[VIDEO DƯỢC LÝ]

————————————————

► Kịch Bản: PharmogTeam

► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog

► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/

► Group : Hội những người mê dược lý

► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/

► Website: pharmog.com

4. Ứng dụng lâm sàng:

4.1. Chỉ định:

Victoza được chỉ định để điều trị bệnh đái tháo đường típ 2 ở người lớn nhằm đạt được sự kiểm soát mức đường huyết khi dùng phối hợp với các thuốc hạ đường huyết dạng uống và/hoặc với insulin nền, khi các thuốc này cùng với chế độ ăn và luyện tập không đủ để kiểm soát mức đường huyết (xem Cảnh báo và Dược lực học về những dữ liệu hiện có liên quan đến các dạng phối hợp khác nhau).

4.2. Liều dùng – Cách dùng:

Cách dùng :

Đường dùng: Tiêm dưới da.

Victoza không được dùng đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.

Victoza được dùng 1 lần/ngày vào bất kỳ lúc nào, không phụ thuộc vào bữa ăn, và có thể tiêm dưới da vào bụng, đùi hoặc phần trên cánh tay. Có thể thay đổi vị trí tiêm và thời gian tiêm mà không cần điều chỉnh liều. Tuy nhiên, tốt nhất là tiêm Victoza gần như vào cùng một thời điểm trong ngày, khi chọn được thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. Để biết thêm hướng dẫn sử dụng, xem Thận trọng.

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG

Image from Drug Label Content

Image from Drug Label Content

Image from Drug Label Content

Không được sử dụng Victoza nếu dung dịch không trong suốt và không màu hoặc gần như không màu.

Không được sử dụng Victoza nếu sản phẩm đã bị đông lạnh.

Victoza có thể được dùng với các kim tiêm có độ dài đến 8mm và độ mảnh nhỏ đến 32G.

Bút tiêm được thiết kế để sử dụng với kim dùng một lần NovoFine hoặc NovoTwist.

Hộp thuốc không bao gồm kim tiêm.

Nên hướng dẫn bệnh nhân hủy bỏ kim tiêm theo đúng quy định của địa phương sau mỗi lần tiêm và bảo quản bút tiêm không có kim gắn vào. Việc này nhằm ngăn ngừa nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn và rò rỉ thuốc, ngoài ra còn bảo đảm liều dùng chính xác.

Liều dùng:

Để cải thiện khả năng dung nạp dạ dày – ruột, liều khởi đầu là 0,6 mg liraglutide mỗi ngày. Sau ít nhất 1 tuần, nên tăng liều lên 1,2 mg. Một số bệnh nhân có thể có lợi từ sự tăng liều từ 1,2 mg đến 1,8 mg và dựa trên đáp ứng lâm sàng, sau ít nhất 1 tuần có thể tăng liều lên 1,8 mg để cải thiện thêm sự kiểm soát đường huyết. Không khuyến cáo dùng các liều hàng ngày cao hơn 1,8 mg.

Victoza có thể được bổ sung vào trị liệu bằng metformin đang dùng hoặc trị liệu phối hợp metformin và thiazolidinedione. Liều metformin và thiazolidinedione đang dùng có thể được tiếp tục không thay đổi.

Victoza có thể được bổ sung vào trị liệu bằng sulphonylurea hoặc trị liệu phối hợp metformin và sulphonylurea hoặc một insulin nền. Khi bổ sung Victoza vào trị liệu bằng sulphonylurea hoặc insulin nền, cần xem xét giảm liều sulphonylurea hoặc insulin nền để giảm nguy cơ hạ đường huyết (xem phần Cảnh báo).

Không cần tự theo dõi đường huyết để điều chỉnh liều Victoza. Tuy nhiên, khi khởi đầu điều trị bằng Victoza phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền, việc tự theo dõi đường huyết có thể trở nên cần thiết để điều chỉnh liều sulphonylurea hoặc insulin nền.

Các nhóm bệnh nhân đặc biệt

Người cao tuổi (> 65 tuổi): Không cần điểu chỉnh liều dựa trên tuổi tác.

Kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân ≥ 75 tuổi còn hạn chế (xem phần Dược động học).

Suy thận: Không cần điều chỉnh liều đối với bệnh nhân suy thận nhẹ hoặc trung bình (độ thanh thải creatinin lần lượt là 60-90 ml/phút và 30-59 ml/phút). Không có kinh nghiệm điều trị ở những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin dưới 30 ml/phút). Hiện nay Victoza không được khuyên dùng đối với bệnh nhân bị suy thận nặng kể cả bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối (xem phần Dược động học).

Suy gan: Kinh nghiệm điều trị ở bệnh nhân suy gan các mức độ hiện nay còn rất hạn chế nên không khuyên dùng ở bệnh nhân bị suy gan nhẹ, trung bình hoặc nặng (xem phần Dược động học).

Trẻ em: Sự an toàn và hiệu quả của Victoza ở trẻ em và thiếu niên dưới 18 tuổi chưa được xác định (xem phần Dược lực học). Không có dữ liệu.

4.3. Chống chỉ định:

Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ thành phần nào của tá dược trong Danh mục tá dược.

Ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy: Chống chỉ định dùng Victoza cho những bệnh nhân có tiền sử bản thân hoặc gia đình bị ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy hoặc bệnh nhân đang bị hội chứng tăng sinh đa tuyến nội tiết típ 2 (MEN2).

4.4 Thận trọng:

Thuốc này chỉ dùng theo đơn của bác sĩ.

Không nên dùng liraglutide ở bệnh nhân bị đái tháo đường típ 1 hoặc để điều trị nhiễm toan ceton do đái tháo đường.

Liraglutide không phải là thuốc thay thế cho insulin.

Kinh nghiệm còn hạn chế ở bệnh nhân bị suy tim sung huyết độ I-II theo phân loại của Hiệp hội Tim New York (NYHA), vì vậy cần thận trọng khi sử dụng liraglutide. Chưa có kinh nghiệm ở bệnh nhân bị suy tim sung huyết độ III-IV theo phân loại của Hiệp hội Tim New York (NYHA) và do vậy liraglutide không được khuyên dùng ở những bệnh nhân này.

Kinh nghiệm còn hạn chế ở bệnh nhân bị viêm ruột và liệt dạ dày do đái tháo đường.

Không khuyên dùng liraglutide ở những bệnh nhân này do sử dụng liraglutide có liên quan với các phản ứng phụ về đường tiêu hóa thoáng qua bao gồm buồn nôn, nôn và tiêu chảy.

Nguy cơ về khối u tế bào tuyến giáp

Khi thử nghiệm trên chuột cống và chuột nhắt ở cả 2 giống đực và cái, liraglutide gây ra khối u tế bào tuyến giáp (u tuyến và/hoặc ung thư biểu mô) phụ thuộc vào thời gian dùng và liều dùng. Ung thư tế bào tuyến giáp ác tính được phát hiện trên chuột cống và chuột nhắt. Không rõ liệu Victoza có gây khối u tế bào tuyến giáp, bao gồm ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở người hay không vì chưa xác định được sự liên quan về khối u tế bào tuyến giáp gây ra bởi liraglutide trên loại động vật gặm nhấm và trên người.

Các trường hợp ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở bệnh nhân được điều trị bằng Victoza đã được báo cáo sau khi đưa sản phẩm ra thị trường; dữ liệu trong các báo cáo này không đủ để thiết lập hay loại trừ mối liên hệ giữa ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy với việc sử dụng Victoza ở người.

Victoza chống chị định cho những bệnh nhân có tiền sử bản thân hoặc gia đình bị ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy hoặc bệnh nhân đang bị hội chứng tăng sinh đa tuyến nội tiết típ 2 (MEN2).

Khuyến cáo bệnh nhân về nguy cơ ung thư biểu mô tuyến giáp khi sử dụng Victoza và thông báo cho họ biết về các triệu chứng của khối u tuyến giáp (ví dụ: thấy bướu ở trong cổ, khó nuốt, khàn giọng dai dẳng). Định kỳ kiểm tra hàm lượng calcitonin trong huyết thanh hay siêu âm tuyến giáp không có giá trị chắc chắn để phát hiện sớm ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy ở bệnh nhân được điều trị bằng Victoza. Do tính đặc hiệu của phép định tính calcitonin huyết thanh thấp và tỷ lệ mắc bệnh tuyến giáp cao nên không cần thiết thực hiện việc theo dõi này. Tăng đáng kể lượng calcitonin trong huyết thanh có thể là chỉ thị của ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy và bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy thường có hàm lượng calcitonin >50 ng/L. Nếu lượng calcitonin trong huyết thanh được đo và thấy tăng, bệnh nhân cần được đánh giá thêm. Bệnh nhân có bướu giáp phát hiện khi kiểm tra sức khỏe hay siêu âm cổ nên được kiểm tra thêm.

Không dùng chung bút tiêm giữa các bệnh nhân: Bút tiêm Victoza không được dùng chung cho các bệnh nhận, ngay cả khi dùng kim riêng. Việc dùng chung có thể dẫn tới nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây qua đường máu.

Suy thận: Không thấy Victoza có độc tính thận trực tiếp ở các nghiên cứu trên động vật và các thử nghiệm lâm sàng. Một số báo cáo sau bán hàng về tình trạng suy thận cấp và nặng thêm ở bệnh nhân suy thận mãn, khiến phải lọc máu ở các bệnh nhân điều trị bằng Victoza. Trong số các bệnh nhân được báo cáo này, có một số bệnh nhân không có bệnh thận cơ bản. Phần lớn các trường hợp, bệnh nhân có buồn nôn, nôn, tiêu chảy hoặc mất nước. Một số trường hợp bệnh nhân dùng một hoặc nhiều thuốc ảnh hưởng đến chức năng thận hay tình trạng hydrat hóa. Chức năng thận được hồi phục ở rất nhiều trường hợp khi được điều trị hỗ trợ và ngừng sử dụng các tác nhân có thể gây nên, bao gồm Victoza. Thận trọng khi bắt đầu sử dụng hay tăng liều Victoza ở bệnh nhân suy thận.

Phản ứng quá mẫn

Có báo cáo sau bán hàng về phản ứng quá mẫn nghiêm trọng (ví dụ sốc mẫn cảm và phù mạch) ở bệnh nhân dùng Victoza. Nếu xảy ra các phản ứng quá mẫn, bệnh nhân nên ngừng sử dụng Victoza cũng như các thuốc nghi ngờ khác và nhanh chóng liên lạc để có lời khuyên về y khoa.

Phù mạch cũng được báo cáo khi dùng các chất đồng vận thụ thể GLP-1. Thận trọng khi sử dụng ở bệnh nhân có tiền sử phù mạch khi dùng các chất đồng vận thụ thể GLP-1 khác bởi vì không rõ liệu bệnh nhân có bị phù mạch khi dùng Victoza hay không.

Viêm tụy cấp: Việc sử dụng các chất đồng vận thụ thể GLP-1 có liên quan với nguy cơ phát triển viêm tụy cấp.

Đã có vài báo cáo phản ứng phụ về viêm tụy cấp. Cần thông báo cho bệnh nhân về các triệu chứng đặc trưng của viêm tụy cấp. Nên ngừng dùng Victoza khi có nghi ngờ viêm tụy và không nên tiếp tục dùng lại Victoza nếu chẩn đoán xác định viêm tụy cấp. Cần thận trọng ở những bệnh nhân có tiền sử viêm tụy.

Bệnh về tuyến giáp: Các phản ứng phụ về tuyến giáp, bao gồm tăng calcitonin huyết, bướu giáp và khối u tân sinh tuyến giáp đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh về tuyến giáp từ trước, và do vậy liraglutide nên được sử dụng thận trọng.

Hạ đường huyết: Những bệnh nhân đang dùng liraglutide phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền có thể tăng nguy cơ bị hạ đường huyết (xem Tác dụng ngoại ý). Có thể làm giảm nguy cơ hạ đường huyết bằng cách giảm liều sulphonylurea hoặc insulin nền.

Mất nước: Các dấu hiệu và triệu chứng của mất nước, bao gồm cả suy thận và suy thận cấp đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide. Cần báo cho những bệnh nhân điều trị bằng liraglutide biết về nguy cơ bị mất nước tiềm ẩn liên quan đến các tác dụng phụ về tiêu hóa và có biện pháp phòng ngừa để tránh mất dịch.

Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.

Tác động trên khả năng lái xe và vận hành máy móc: Victoza không có tác động hoặc có tác động không đáng kể trên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Cần khuyên bệnh nhân thận trọng tránh bị hạ đường huyết trong khi lái xe và vận hành máy móc, đặc biệt khi Victoza được dùng phối hợp với một sulphonylurea hoặc một insulin nền.

4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:

Xếp hạng cảnh báo

AU TGA pregnancy category: B3

US FDA pregnancy category: C

Thời kỳ mang thai:

Chưa có đủ dữ liệu về việc sử dụng liraglutide ở phụ nữ có thai.

Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy độc tính trên sự sinh sản (xem An toàn tiền lâm sàng).

Chưa rõ nguy cơ có thể có đối với người.

Không được dùng liraglutide trong khi mang thai, thay vào đó việc sử dụng insulin được khuyến cáo. Nếu bệnh nhân muốn có thai hoặc phát hiện có thai, phải ngừng điều trị bằng Victoza.

Thời kỳ cho con bú:

Chưa rõ liraglutide có được bài tiết vào sữa mẹ hay không. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy sự truyền liraglutide và các chất chuyển hóa có quan hệ gần về cấu trúc qua sữa là thấp. Nghiên cứu tiền lâm sàng đã cho thấy có sự giảm tăng trưởng chuột con sơ sinh còn bú mẹ liên quan đến điều trị (xem An toàn tiền lâm sàng). Do còn thiếu kinh nghiệm, không được dùng Victoza trong khi cho con bú.

Khả năng sinh sản:

Ngoài sự giảm nhẹ về số lượng thai làm tổ còn sống, nghiên cứu trên động vật không cho thấy tác hại đối với khả năng sinh sản.

4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):

Tóm tắt thông tin về an toàn: Trong 5 thử nghiệm lâm sàng lớn dài hạn, trên 2500 bệnh nhân đã được điều trị bằng Victoza đơn độc hoặc phối hợp với metformin, sulphonylurea (có hoặc không có metformin) hoặc metformin cộng rosiglitazone.

Những phản ứng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất trong các thử nghiệm lâm sàng là rối loạn tiêu hóa: buồn nôn và tiêu chảy là rất thường gặp, trong khi nôn, táo bón, đau bụng và khó tiêu là thường gặp. Lúc bắt đầu điều trị, những phản ứng ngoại ý về tiêu hóa này có thể hay xảy ra hơn. Những phản ứng này thường giảm trong vòng vài ngày hoặc vài tuần khi tiếp tục điều trị. Nhức đầu và viêm mũi họng cũng thường gặp. Hơn nữa, hạ đường huyết cũng thường gặp và rất thường gặp trong trường hợp liraglutide được sử dụng kết hợp với một sulphonylurea. Hạ đường huyết nặng chủ yếu được quan sát thấy khi kết hợp với một sulphonylurea.

Bảng danh sách các phản ứng ngoại ý: Bảng 3 liệt kê các phản ứng ngoại ý của Victoza được báo cáo trong các thử nghiệm pha 3 dài hạn có đối chứng và báo cáo tự phát (hậu mãi).

Tần suất về các báo cáo tự phát có liên quan (hậu mãi) đã được tính dựa trên tỷ lệ mắc trong các thử nghiệm lâm sàng pha 3.

Tần suất được phân loại như sau: Rất thường gặp (≥1/10); thường gặp (≥1/100 – <1/10); ít gặp (≥ 1/1.000 – <1/100); hiếm gặp (≥1/10.000 – <1/1.000); rất hiếm gặp (<1/10.000); không rõ tần suất (không thể xác định được từ các dữ liệu hiện có). Trong mỗi nhóm tần suất, các phản ứng ngoại ý được trình bày theo thứ tự độ nghiêm trọng giảm dần.

Image from Drug Label Content

Mô tả các phản ứng ngoại ý chọn lọc: Trong một thử nghiệm lâm sàng với liraglutide đơn trị liệu, tỷ lệ hạ đường huyết được báo cáo với liraglutide thấp hơn tỷ lệ được báo cáo đối với những bệnh nhân được điều trị với thuốc đối chứng (glimepiride). Các phản ứng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất là rối loạn tiêu hóa, nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng.

Hạ đường huyết: Hầu hết các cơn hạ đường huyết có chẩn đoán xác định trong các thử nghiệm lâm sàng đều nhẹ. Không quan sát thấy các cơn hạ đường huyết nặng trong nghiên cứu với liraglutide đơn trị liệu. Hạ đường huyết nặng có thể xảy ra không thường xuyên và chủ yếu được quan sát thấy khi liraglutide được phối hợp với một sulphonylurea (0,02 trường hợp/người năm).

Rất ít cơn hạ đường huyết (0,001 trường hợp/người năm) được quan sát thấy khi dùng liraglutide phối hợp với các thuốc điều trị đái tháo đường khác ngoài sulphonylurea. Nguy cơ hạ đường huyết là thấp khi sử dụng phối hợp giữa insulin nền và liraglutide (1,0 trường hợp/người năm, xem Dược lực học).

Phản ứng ngoại ý đường tiêu hóa: Khi phối hợp liraglutide và metformin, 20,7% bệnh nhân có ít nhất một cơn buồn nôn và 12,6% bệnh nhân có ít nhất một đợt tiêu chảy. Khi phối hợp liraglutide với một sulphonylurea, 9,1% bệnh nhân có ít nhất một cơn buồn nôn và 7,9% bệnh nhân có ít nhất một đợt tiêu chảy được báo cáo. Hầu hết trường hợp đều từ nhẹ đến trung bình, và xảy ra phụ thuộc vào liều. Khi tiếp tục điều trị, tần suất và mức độ nghiêm trọng giảm ở hầu hết các bệnh nhân ban đầu bị buồn nôn.

Những bệnh nhân > 70 tuổi có thể gặp các tác dụng ngoại ý ở đường tiêu hóa nhiều hơn khi được điều trị bằng liraglutide.

Những bệnh nhân bị suy thận nhẹ và trung bình (độ thanh thải creatinine lần lượt là 60-90 ml/phút và 30-59 ml/phút) có thể gặp các tác dụng ngoại ý ở đường tiêu hóa nhiều hơn khi được điều trị bằng liraglutide.

Ngừng thuốc: Tỷ lệ ngừng thuốc do các phản ứng ngoại ý là 7,8% đối với bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide và 3,4% đối với bệnh nhân được điều trị bằng thuốc đối chứng trong các thử nghiệm dài hạn có đối chứng (26 tuần hoặc lâu hơn). Các phản ứng ngoại ý thường gặp nhất dẫn đến ngừng thuốc đối với bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide là buồn nôn (2,8% bệnh nhân) và nôn (1,5%).

Phản ứng tại vị trí tiêm: Phản ứng tại vị trí tiêm đã được báo cáo trong 2% đối tượng sử dụng Victoza dài hạn (26 tuần hoặc lâu hơn) trong các thử nghiệm có đối chứng. Những phản ứng này thường nhẹ.

Viêm tụy: Đã có báo cáo vài trường hợp viêm tụy cấp (< 0,2%) trong các thử nghiệm dài hạn với Victoza. Viêm tụy cũng được báo cáo trong giai đoạn hậu mãi.

Phản ứng dị ứng: Các phản ứng dị ứng bao gồm nổi mề đay, nổi ban và ngứa đã được báo cáo với việc sử dụng Victoza khi thuốc đã lưu hành trên thị trường.

Ít trường hợp phản ứng phản vệ với các triệu chứng kèm theo như hạ huyết áp, đánh trống ngực, khó thở, phù đã được báo cáo với việc sử dụng Victoza khi thuốc lưu hành trên thị trường. Ít trường hợp phù mạch (0,05%) đã được báo cáo trong các thử nghiệm dài hạn với Victoza.

Báo cáo phản ứng ngoại ý nghi ngờ: Báo cáo phản ứng ngoại ý nghi ngờ sau khi sản phẩm thuốc được cấp phép lưu hành là rất quan trọng. Việc này cho phép giám sát liên tục cân bằng lợi ích/nguy cơ của các sản phẩm thuốc. Các nhân viên y tế được yêu cầu báo cáo bất kỳ trường hợp nghi ngờ phản ứng ngoại ý nào thông qua hệ thống báo cáo quốc gia.

Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:

Ngừng sử dụng thuốc. Với các phản ứng bất lợi nhẹ, thường chỉ cần ngừng thuốc. Trường hợp mẫn cảm nặng hoặc phản ứng dị ứng, cần tiến hành điều trị hỗ trợ (giữ thoáng khí và dùng epinephrin, thở oxygen, dùng kháng histamin, corticoid…).

4.8 Tương tác với các thuốc khác:

Trong phòng thí nghiệm, liraglutide cho thấy rất ít khả năng có tương tác dược động học với các hoạt chất liên quan đến cytochrome P450 và gắn kết với protein huyết tương.

Hiện tượng chậm làm rỗng dạ dày nhẹ khi dùng liraglutide có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các thuốc dạng uống dùng đồng thời. Các nghiên cứu về tương tác không cho thấy bất kỳ sự chậm hấp thu nào có ý nghĩa lâm sàng và do vậy không cần điều chỉnh liều. Một vài bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide đã báo cáo có ít nhất một đợt tiêu chảy nặng. Tiêu chảy có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu các thuốc dạng uống dùng đồng thời.

Warfarin và các dẫn xuất coumarin khác: Chưa có nghiên cứu nào về tương tác được thực hiện. Không loại trừ được tương tác có ý nghĩa lâm sàng với các hoạt chất có độ tan kém hoặc chỉ số điều trị hẹp như warfarin. Khi khởi đầu điều trị bằng liraglutide ở những bệnh nhân đang dùng warfarin hoặc các dẫn xuất coumarin khác, khuyến cáo theo dõi tỷ số chuẩn hóa quốc tế (INR) thường xuyên hơn.

Paracetamol: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của paracetamol sau khi dùng một liều đơn 1000 mg. Nồng độ cao nhất trong huyết tương (Cmax) của paracetamol giảm 31% và trung vị thời gian đạt được nồng độ cao nhất trong huyết tương (tmax) chậm đến 15 phút. Không cần điều chỉnh liều khi dùng đồng thời với paracetamol.

Atorvastatin: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của atorvastatin có ý nghĩa lâm sàng sau khi dùng một liều đơn atorvastatin 40 mg. Vì vậy không cần điều chỉnh liều atorvastatin khi dùng với liraglutide. Cmax của atorvastatin giảm 38% và tmax trung vị chậm từ 1-3 giờ khi dùng với liraglutide.

Griseofulvin: Liraglutide không làm thay đổi mức tiếp xúc tổng thể của griseofulvin sau khi dùng một liều đơn griseofulvin 500 mg. Cmax của griseofulvin tăng 37% trong khi tmax trung vị không thay đổi. Không cần điều chỉnh liều griseofulvin và các hợp chất khác có độ tan thấp và độ thẩm thấu cao.

Digoxin: Dùng một liều đơn digoxin 1 mg với liraglutide dẫn đến giảm diện tích dưới đường cong (AUC) của digoxin 16%; Cmax giảm 31%. Trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) của digoxin chậm lại từ 1 giờ đến 1,5 giờ. Dựa trên những kết quả này, không cần điều chỉnh liều digoxin.

Lisinopril: Dùng một liều đơn lisinopril 20 mg với liraglutide dẫn đến giảm AUC của lisinopril 15%; Cmax giảm 27%. Trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) của lisinopril chậm lại từ 6 giờ đến 8 giờ khi dùng với liraglutide. Dựa trên những kết quả này, không cần điều chỉnh liều lisinopril.

Các thuốc tránh thai dạng uống: Liraglutide làm giảm Cmax của ethinyloestradiol và levonorgestrel lần lượt là 12% và 13% , sau khi dùng một liều đơn thuốc tránh thai dạng uống. Tmax chậm 1,5 giờ khi dùng liraglutide đối với cả hai hợp chất. Không có ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng nào đối với mức độ tiếp xúc tổng thể ethinyloestradiol hoặc levonorgestrel. Vì vậy tác dụng tránh thai được dự đoán không bị ảnh hưởng khi dùng kết hợp với liraglutide.

Insulin: Không quan sát thấy tương tác dược động học hoặc dược lực học giữa liraglutide và insulin detemir khi sử dụng một liều đơn insulin detemir 0,5 U/kg với liraglutide 1,8 mg ở trạng thái ổn định cho bệnh nhân đái tháo đường típ 2.

4.9 Quá liều và xử trí:

Từ các thử nghiệm lâm sàng và việc sử dụng khi thuốc lưu hành trên thị trường, đã có báo cáo các trường hợp dùng quá liều lên đến 40 lần liều duy trì được khuyến cáo (72 mg). Các biến cố đã được báo cáo bao gồm buồn nôn và nôn nặng. Không có báo cáo nào bao gồm hạ đường huyết nặng. Tất cả bệnh nhân đã phục hồi không có biến chứng.

Trong trường hợp quá liều, cần bắt đầu điều trị hỗ trợ thích hợp tùy theo các triệu chứng cơ năng và thực thể trên lâm sàng của bệnh nhân.

5. Cơ chế tác dụng của thuốc :

5.1. Dược lực học:

Tác dụng dược lực học: Liraglutide có thời gian tác dụng 24 giờ và cải thiện sự kiểm soát đường huyết nhờ làm giảm đường huyết lúc đói và đường huyết sau ăn ở những bệnh nhân bị đái tháo đường típ 2.

Hiệu quả và độ an toàn trên lâm sàng: 5 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của liraglutide trên sự kiểm soát đường huyết. Việc điều trị bằng liraglutide đã tạo ra sự cải thiện có ý nghĩa cả về lâm sàng và thống kê về nồng độ haemoglobin A1c (HbA1c) glycosyl hóa, đường huyết lúc đói và đường huyết sau ăn so với giả dược.

Những thử nghiệm này bao gồm 3.978 bệnh nhân bị đái tháo đường típ 2 sử dụng thuốc (2.501 người được điều trị với liraglutide), 53,7% nam và 46,3% nữ, 797 người ≥ 65 tuổi (trong đó 508 người được điều trị với liraglutide) và 113 người ≥ 75 tuổi (trong đó 66 người được điều trị với liraglutide).

Những nghiên cứu thực nghiệm khác đã được thực hiện với liraglutide bao gồm 1.910 bệnh nhân trong 4 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng và không mù (bao gồm 464, 658, 323 và 177 bệnh nhân/thử nghiệm) và một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và suy thận mức độ trung bình (279 bệnh nhân).

Kiểm soát đường huyết

Phối hợp với các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống: Trị liệu phối hợp liraglutide với metformin, glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone trong 26 tuần đã dẫn đến giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001) và giảm kéo dài về nồng độ HbA1c so với bệnh nhân dùng giả dược (bảng 1).

Image from Drug Label Content

Liều insulin glargine do bệnh nhân tự điều chỉnh sau khi được nhà nghiên cứu hướng dẫn (bảng 2).

Image from Drug Label Content

Phối hợp với insulin: Trong một thử nghiệm lâm sàng 104 tuần, 57% bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được điều trị bằng insulin degludec phối hợp với metformin đã đạt được mục tiêu HbA1C < 7%, số bệnh nhân còn lại tiếp tục tham gia thử nghiệm nhãn mở trong 26 tuần và được phân nhóm ngẫu nhiên bổ sung thêm liraglutide hoặc một liều đơn insulin aspart (trong bữa ăn lớn nhất). Trong nhóm dùng phối hợp insulin degludec + liraglutide, liều insulin được giảm 20% để giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết. Bổ sung thêm liraglutide dẫn đến sự giảm có ý nghĩa thống kê HbA1c (-0,73% đối với liraglutide so với -0,4% đối với thuốc đối chứng) và cân nặng (-3,03 so với 0,72kg). Tần suất của các cơn hạ đường huyết (trên mỗi bệnh nhân – năm tiếp xúc) giảm có ý nghĩa thống kê khi bổ sung thêm liraglutide so với khi bổ sung một liều đơn insulin aspart (1,0 so với 8,15; tỷ số: 0,13; khoảng tin cậy 95%: 0,08 đến 0,21).

Trong một thử nghiệm lâm sàng 52 tuần, bổ trợ thêm insulin detemir cho bệnh nhân không đạt được mục tiêu kiểm soát đường huyết khi chỉ dùng liraglutide và metformin đã dẫn đến giảm HbA1C so với ban đầu là 0,54% so với 0,2% trên nhóm đối chứng dùng liraglutide 1,8 mg và metformin. Hiện tượng giảm cân nặng vẫn được duy trì. Có sự tăng nhẹ tần suất các cơn hạ đường huyết nhẹ (0,23 so với 0,03 trường hợp trên mỗi bệnh nhân – năm)

Sử dụng ở bệnh nhân suy thận: Trong một nghiên cứu mù đôi so sánh tính hiệu quả và an toàn của liraglutide 1,8 mg với giả dược khi dùng bổ sung vào liệu trình insulin và/hoặc các thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và suy thận trung bình, liraglutide ưu thế hơn giả dược trong việc điều trị làm giảm HbA1c sau 26 tuần (1,05% so với 0,38%). Số bệnh nhân đạt được HbA1c dưới 7% với liraglutide nhiều hơn có ý nghĩa so với giả dược (52,8% so với 19,5%). Trong cả hai nhóm đều ghi nhận có giảm cân nặng: -2,4kg với liraglutide so với -1,09 với giả dược. Nguy cơ các cơn hạ đường huyết giữa 2 nhóm điều trị là tương đương nhau. Tính an toàn của liraglutide nhìn chung là tương tự với các quan sát ở những nghiên cứu khác với liraglutide.

Tỷ lệ bệnh nhân đạt được mức giảm HbA1c: Liraglutide phối hợp với metformin, glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone đã dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân đạt được HbA1c ≤ 6,5% nhiều hơn có ý nghĩa thống kê (p ≤ 0,0001) vào lúc 26 tuần so với những bệnh nhân chỉ dùng những thuốc kể trên.

Đường huyết lúc đói: Điều trị bằng liraglutide đơn độc hoặc phối hợp với một hay hai thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống đã dẫn đến giảm đường huyết lúc đói là 13-43,5 mg/dl (0,72-2,42 mmol/l). Sự giảm này được quan sát thấy trong vòng 2 tuần đầu điều trị.

Đường huyết sau ăn: Liraglutide làm giảm đường huyết sau ăn trên tất cả bữa ăn là 31-49 mg/dl (1,68-2,71 mmol/l).

Chức năng tế bào beta: Các thử nghiệm lâm sàng với liraglutide cho thấy chức năng tế bào beta được cải thiện dựa trên các biện pháp như mô hình đánh giá chức năng tế bào beta dựa vào sự hằng định nội môi (HOMA-B) và tỷ số tiền insulin trên insulin. Sự tiết insulin pha đầu và pha thứ 2 được cải thiện sau 52 tuần điều trị bằng liraglutide đã được thể hiện trong một nhóm phụ bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường típ 2 (N=29).

Cân nặng: Liraglutide phối hợp với metformin, metformin và glimepiride hoặc metformin và rosiglitazone có liên quan với sự giảm cân kéo dài trong thời gian nghiên cứu trong phạm vi từ 1,0kg đến 2,8kg, và ghi nhận được chỉ số khối cơ thể (BMI) ban đầu càng cao thì mức độ giảm cân càng nhiều.

Đánh giá trên tim mạch

Huyết áp: Trong thời gian nghiên cứu, liraglutide làm giảm huyết áp tâm thu trung bình từ 2,3-6,7mmHg so với ban đầu, và sự giảm này là 1,9-4,5mmHg khi so với thuốc đối chứng.

Phân tích post-hoc các biến cố ngoại ý nghiêm trọng về tim mạch (tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim, đột quỵ) từ tất cả các thử nghiệm pha 2 và pha 3 dài hạn và trung hạn (từ 26 đến 100 tuần) bao gồm 5.607 bệnh nhân (3.651 bệnh nhân được dùng liraglutide), đã cho thấy không có sự tăng nguy cơ tim mạch (tỷ số nguy cơ là 0,75 (khoảng tin cậy 95% 0,35; 1,63) theo tiêu chí đánh giá phối hợp cho liraglutide so với tất cả các thuốc đối chứng (metformin, glimepiride, rosiglitazone, insulin glargine, giả dược)). Bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao đã được loại ra khỏi các thử nghiệm này và tỷ lệ mắc các biến cố ngoại ý nghiêm trọng về tim mạch là thấp (6,02/1.000 bệnh nhân năm ở những bệnh nhân điều trị với liraglutide và 10,45 ở những bệnh nhân điều trị với tất cả các thuốc đối chứng), không đủ để kết luận chắc chắn.

Tính sinh miễn dịch: Bệnh nhân có thể phát triển kháng thể kháng liraglutide sau khi điều trị bằng liraglutide, phù hợp với các đặc tính sinh miễn dịch của các thuốc chứa protein hoặc peptide. Trung bình 8,6% bệnh nhân phát triển kháng thể. Sự tạo thành kháng thể không liên quan với giảm hiệu quả của liraglutide.

Trẻ em: Cơ Quan Quản Lý Thuốc Châu Âu (EMA) đã hoãn nghĩa vụ cung cấp kết quả nghiên cứu với Victoza ở một hoặc nhiều tiểu nhóm trẻ em trong bệnh đái tháo đường típ 2 (xem Liều lượng và Cách dùng để biết thông tin về việc sử dụng ở trẻ em).

Các dữ liệu lâm sàng khác: Trong một nghiên cứu nhãn mở so sánh hiệu quả và độ an toàn của liraglutide (1,2 mg và 1,8 mg) và sitagliptin (chất ức chế DPP-4, 100 mg) ở những bệnh nhân không đạt độ kiểm soát đường huyết khi điều trị bằng metformin (HbA1c trung bình 8,5%), liraglutide ở cả hai liều dùng trội hơn so với điều trị bằng sitagliptin trong việc làm giảm HbA1c sau 26 tuần (1,24%, -1,50% so với -0,90%, p<0,0001).

Những bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide đã giảm cân nặng đáng kể so với ở những bệnh nhân được điều trị bằng sitagliptin (-2,9kg và -3,4kg so với -1,0kg, p<0,0001).

Tỷ lệ bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide bị buồn nôn thoáng qua cao hơn so với những người được điều trị bằng sitagliptin (20,8% và 27,1% so với 4,6%).

Sự giảm HbA1c và sự trội hơn so với sitagliptin quan sát thấy sau 26 tuần điều trị bằng liraglutide (1,2 mg và 1,8 mg) vẫn được duy trì sau 52 tuần điều trị (-1,29% và -1,51% so với -0,88%, p<0,0001).

Việc chuyển bệnh nhân từ sitagliptin sang liraglutide sau 52 tuần điều trị đã dẫn đến giảm thêm có ý nghĩa thống kê về HbA1c (-0,24% và -0,45%, khoảng tin cậy 95%: -0,41 đến -0,07 và -0.67 đến -0,23) ở tuần 78 nhưng không có một nhóm đối chứng chính thức.

Trong một nghiên cứu nhãn mở so sánh hiệu quả và độ an toàn của liraglutide 1,8 mg 1 lần/ngày và exenatide 10 mg, 2 lần/ngày ở những bệnh nhân không đạt độ kiểm soát đường huyết khi điều trị bằng metformin và/hoặc sulphonylurea (HbA1c trung bình 8,3%), liraglutide trội hơn exenatide có ý nghĩa thống kê trong việc làm giảm HbA1c sau 26 tuần (-1,12% so với -0,79%, khác biệt trị liệu ước tính: -0,33; khoảng tin cậy 95%: -0,47 đến -0,18). Số bệnh nhân đạt được HbA1c dưới 7% với liraglutide nhiều hơn có ý nghĩa so với exenatide (54,2% so với 43,4%, p=0,0015). Cả hai loại thuốc điều trị dẫn đến giảm cân nặng trung bình khoảng 3kg.

Việc chuyển bệnh nhân từ exenatide sang liraglutide sau 26 tuần điều trị dẫn đến giảm thêm về HbA1c có ý nghĩa thống kê (-0,32%, khoảng tin cậy 95%: -0.41 đến -0,24) ở tuần 40, nhưng không có một nhóm đối chứng chính thức. Trong thời gian 26 tuần, đã có 12 biến cố ngoại ý nghiêm trọng ở 235 bệnh nhân (5,1%) sử dụng liraglutide, trong khi có 6 biến cố ngoại ý nghiêm trọng ở 232 bệnh nhân (2,6%) sử dụng exenatide. Không có quy luật cố định về hệ cơ quan xảy ra các biến cố.

Cơ chế tác dụng:

Liraglutide là một chất tương tự GLP-1 với trình tự chuỗi tương đồng 97% với GLP-1 người, gắn kết và hoạt hóa thụ thể GLP-1. Thụ thể GLP-1 là đích đối với GLP-1 tự nhiên, là một hormone incretin nội sinh có khả năng làm tiết insulin phụ thuộc glucose từ tế bào beta tuyến tụy. Không giống như GLP-1 tự nhiên, liraglutide có dữ liệu dược động học và dược lực học ở người phù hợp để dùng 1 lần/ngày. Sau khi tiêm dưới da, đặc tính tác dụng kéo dài của thuốc dựa trên 3 cơ chế: tự kết hợp, dẫn đến sự hấp thu chậm; gắn kết với albumin; và tính ổn định với enzyme cao hơn đối với các enzyme dipeptidyl peptidase IV (DPP-IV) và endopeptidase trung tính (NEP), dẫn đến thời gian bán hủy trong huyết tương kéo dài.

Hoạt động của liraglutide thông qua một sự tương tác đặc hiệu với các thụ thể GLP-1, dẫn đến tăng adenosine monophosphate vòng (cAMP). Liraglutide kích thích sự tiết insulin theo cách phụ thuộc glucose. Đồng thời, liraglutide làm giảm sự tiết glucagon cao không thích hợp, cũng theo cách phụ thuộc glucose. Vì vậy, khi đường huyết cao, sự tiết insulin được kích thích và sự tiết glucagon bị ức chế. Ngược lại, khi đường huyết thấp, liraglutide làm giảm sự tiết insulin và không làm suy giảm sự tiết glucagon.

Tham gia vào cơ chế làm giảm đường huyết còn có sự chậm làm rỗng dạ dày nhẹ. Liraglutide làm giảm cân nặng và khối lượng chất béo trong cơ thể qua cơ chế bao gồm làm giảm cảm giác đói và giảm năng lượng nạp vào.

[XEM TẠI ĐÂY]

5.2. Dược động học:

Hấp thu: Sự hấp thu liraglutide sau khi tiêm dưới da chậm, đạt nồng độ tối đa sau khi dùng 8-12 giờ. Nồng độ liraglutide tối đa ước tính là 9,4 nmol/l đối với một liều đơn liraglutide 0,6 mg tiêm dưới da. Khi dùng liraglutide 1,8 mg, nồng độ trung bình của liraglutide ở trạng thái ổn định (- AUCT/24) đạt được khoảng 34 nmol/l. Mức tiếp xúc của liraglutide tăng tỷ lệ thuận với liều dùng. Hệ số biến thiên trên cùng một đối tượng về AUC của liraglutide là 11% sau khi dùng liều đơn.

Sinh khả dụng tuyệt đối của liraglutide sau khi tiêm dưới da khoảng 55%.

Phân bố: Thể tích phân bố biểu kiến sau khi tiêm dưới da là 11-17 lít. Thể tích phân bố trung bình sau khi tiêm tĩnh mạch liraglutide là 0,07 lít/kg. Liraglutide gắn kết mạnh với protein huyết tương (> 98%).

Chuyển hóa: Trong thời gian 24 giờ sau khi tiêm một liều đơn liraglutide có đánh dấu phóng xạ [3H]-cho những người khỏe mạnh, thành phần chính lưu hành trong huyết tương là liraglutide nguyên vẹn. Hai chất chuyển hóa lượng nhỏ đã được phát hiện (≤ 9% và ≤ 5% mức tiếp xúc toàn phần của phóng xạ trong huyết tương). Liraglutide được chuyển hóa theo cách tương tự như với các protein phân tử lớn mà không có một cơ quan đặc hiệu nào được xác định là đường thải trừ chính.

Thải trừ: Sau khi tiêm một liều [3H]-liraglutide, không phát hiện liraglutide nguyên vẹn trong nước tiểu hoặc phân. Chỉ một phần nhỏ phóng xạ đã sử dụng được đào thải dưới dạng các chất chuyển hóa liên quan với liraglutide trong nước tiểu hoặc phân (lần lượt là 6% và 5%). Phóng xạ trong nước tiểu và phân chủ yếu được đào thải trong 6-8 ngày đầu, và thuộc về 3 chất chuyển hóa nhỏ tương ứng.

Độ thanh thải trung bình sau khi tiêm dưới da một liều đơn liraglutide là khoảng 1,2 lít/giờ với thời gian bán thải khoảng 13 giờ.

Nhóm bệnh nhân đặc biệt

Người cao tuổi: Tuổi tác không ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng trên dược động học của liraglutide dựa trên các kết quả từ một nghiên cứu dược động học ở người khỏe mạnh và phân tích dữ liệu dược động học theo dân số bệnh nhân (18-80 tuổi).

Giới: Giới không có ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng trên dược động học của liraglutide dựa trên các kết quả của phân tích dữ liệu dược động học theo dân số bệnh nhân nam và nữ, và một nghiên cứu về dược động học ở người khỏe mạnh.

Chủng tộc: Chủng tộc không có ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng trên dược động học của liraglutide dựa trên các kết quả phân tích dược dộng học theo dân số bệnh nhân bao gồm người da trắng, da đen, châu Á, gốc Tây Ban Nha.

Béo phì: Phân tích dược động học theo nhóm nghiên cứu cho thấy chỉ số khối cơ thể (BMI) không ảnh hưởng có ý nghĩa trên dược động học của liraglutide.

Suy gan: Dược động học của liraglutide đã được đánh giá ở các đối tượng có mức độ suy gan khác nhau trong một thử nghiệm dùng liều đơn.

Mức tiếp xúc của liraglutide giảm 13-23% ở đối tượng suy gan từ nhẹ đến trung bình so với người khỏe mạnh.

Mức tiếp xúc giảm đáng kể (44%) ở đối tượng suy gan nặng (điểm số Child Pugh > 9).

Suy thận: Mức tiếp xúc của liraglutide giảm ở những đối tượng bị suy thận so với đối tượng có chức năng thận bình thường. Mức tiếp xúc của liraglutide giảm 33%, 14%, 27% và 28% tương ứng ở những người bị suy thận nhẹ (độ thanh thải creatinine, CrCL 50-80 ml/phút), suy thận trung bình (CrCL 30-50 ml/phút), suy thận nặng (CrCL < 30 ml/phút) và trong bệnh thận giai đoạn cuối cần sự thẩm phân. Tương tự, trong một thử nghiệm lâm sàng 26 tuần, bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và suy thận trung bình (độ thanh thải Creatinin 30-39 ml/phút, xem Dược lực học) có mức tiếp xúc với liraglutide thấp hơn 26% khi so sánh với một thử nghiệm riêng biệt bao gồm các bệnh nhân đái tháo đường típ 2 với chứng năng thận bình thường hoặc suy thận nhẹ.

5.3 Giải thích:

Chưa có thông tin. Đang cập nhật.

5.4 Thay thế thuốc :

Chưa có thông tin. Đang cập nhật.

*Lưu ý:

Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ

Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com

6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:

6.1. Danh mục tá dược:

Danh mục tá dược: Dinatri phosphate dihydrate, propylene glycol, phenol, nước pha tiêm.

6.2. Tương kỵ :

Các chất được pha trộn vào Victoza có thể gây thoái biến liraglutide. Khi chưa có các nghiên cứu về sự tương hợp, không được pha trộn thuốc này với các thuốc khác.

6.3. Bảo quản:

Bảo quản trong trong tủ lạnh (2ºC-8ºC).

Không để đông lạnh.

Để xa ngăn đông lạnh.

Sau khi sử dụng lần đầu:

Bảo quản dưới 30°C hoặc trong tủ lạnh (2ºC-8ºC).

Không để đông lạnh.

Đậy nắp bút tiêm để tránh ánh sáng.

6.4. Thông tin khác :

An toàn tiền lâm sàng

Các dữ liệu tiền lâm sàng không phát hiện nguy cơ đặc biệt đối với người dựa trên những nghiên cứu thường quy về dược lý an toàn, độc tính liều nhắc lại hoặc độc tính gen.

Đã ghi nhận các khối u tế bào C của tuyến giáp không gây tử vong trong các nghiên cứu 2 năm về tính gây ung thư trên chuột cống và chuột nhắt. Trên chuột cống, không ghi nhận được mức nồng độ không thấy có tác hại (NOAEL). Những khối u này không tìm thấy ở khỉ được điều trị trong 20 tháng. Những phát hiện này ở loài chuột là do cơ chế đặc hiệu không gây độc gen qua trung gian thụ thể GLP-1 mà loài chuột đặc biệt nhạy cảm. Khả năng hiện tượng này phù hợp ở người là thấp nhưng không thể loại trừ hoàn toàn. Không tìm thấy các khối u khác liên quan với điều trị.

Các nghiên cứu trên động vật không cho thấy tác dụng có hại trực tiếp đối với khả năng sinh sản nhưng tỷ lệ chết phôi sớm tăng nhẹ ở liều cao nhất. Sử dụng Victoza vào giữa thai kỳ làm giảm cân nặng ở động vật mẹ và sự phát triển của thai với các ảnh hưởng không nhất quán trên xương sườn ở chuột cống và thay đổi về bộ xương ở thỏ.

Sự tăng trưởng thời kỳ sơ sinh ở chuột giảm khi cho tiếp xúc với Victoza, và kéo dài trong suốt thời kỳ sau khi cai sữa ở nhóm dùng liều cao. Chưa rõ có phải sự giảm tăng trưởng của chuột con có nguyên nhân từ sự giảm lượng sữa ăn vào ở chuột con do tác dụng GLP-1 trực tiếp hay giảm tạo sữa ở chuột mẹ do giảm thu nhận calo.

Sau khi tiêm động mạch liraglutide cho thỏ, quan sát thấy có xuất huyết nhẹ đến trung bình, ban đỏ và sưng tại chỗ tiêm.

6.5 Tài liệu tham khảo:

Dược Thư Quốc Gia Việt Nam

Hoặc HDSD Thuốc.

7. Người đăng tải /Tác giả:

Bài viết được sưu tầm hoặc viết bởi: Bác sĩ nhi khoa – Đỗ Mỹ Linh.

Kiểm duyệt , hiệu đính và đăng tải: PHARMOG TEAM