1. Tên hoạt chất và biệt dược:
Hoạt chất : Etanercept
Phân loại: Thuốc điều hòa miễn dịch. Thuốc ức chế TNF alfa
Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)
Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): L04AA11, L04AB01.
Biệt dược gốc:
Biệt dược: Enbrel
Hãng sản xuất : Boehringer Ingelheim Pharma GmbH & Co. KG
2. Dạng bào chế – Hàm lượng:
Dạng thuốc và hàm lượng
Bút tiêm chứa 25 mg dung dịch.
Bột pha tiêm 25mg có kèm ống dung môi.
Thuốc tham khảo:
ENBREL 25mg | ||
Mỗi ống bột pha tiêm có chứa: | ||
Etanercept | …………………………. | 25 mg |
Tá được | …………………………. | vừa đủ (Xem mục 6.1) |
3. Video by Pharmog:
[VIDEO DƯỢC LÝ]
————————————————
► Kịch Bản: PharmogTeam
► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog
► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/
► Group : Hội những người mê dược lý
► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/
► Website: pharmog.com
4. Ứng dụng lâm sàng:
4.1. Chỉ định:
Viêm khớp dạng thấp
Enbrel được chỉ định kết hợp với methotrexat để điều trị viêm khớp dạng thấp tiến triển. mức độ từ vừa đến nặng ở bệnh nhân người lớn khi đáp ứng không đây đủ với các thuốc điều trị cơ bản (disease-modifying antirheumatic drugs – DMARDs), kể cả methotrexat (trừ khi có chống chỉ định).
Enbrel có thể được dùng dưới dạng đơn trị liệu trong trường hợp không dung nạp methotrexat hoặc khi việc tiệp tục điều trị bằng methotrexat là không phù hợp.
Enbrel cũng được chỉ định trong điều trị viêm khớpdạng thấp nặng, thể hoạt động, và đang tiến triển ở bệnh nhân người lớn chưa được điều trị với methotrexat trước đó.
Enbrel, khi dùng đơn trị liệu hoặc kết hợp với methotrexat, cho thay làm giảm tỉ lệ tiến triển tổn thương khớp khi đánh giá bằng X-quang và làm cải thiện chức năng vận động.
Viêm khớp tự phát thiếu niên
Điều trị viêm đa khớp (yếu tố dạng thấp dương tính hoặc âm tính) và viêm thiểu khớp kéo dài ở trẻ em và thiếu niên từ 2 tuổi trở lên có đáp ứng không đây đủ hoặc có bằng chứng cho thấy không dung nạp methotrexat.
Điều trị viêm khớp vảy nến ở thiếu niên từ 12 tuổi trở lên có đáp ứng không đầy đủ hoặc có bằng chứng cho thấy không dung nạp methotrexat.
Điều trị viêm khớp thể viêm điểm bám gân ở thiếu niên từ 12 tuổi trở lên có đáp ứng không đầy đủ hoặc có bằng chứng cho thấy không dung nạp với các thuộc điều trị thông thường.
Enbrel chưa được nghiên cứu ở trẻ em dưới 2 tuổi.
Viêm khớp vẩy nến
Điều trị viêm khớp vảy nến thể hoạt động và tiễn triển ở người lớn khi đáp ứng không đầy đủ với trị liệu sử đụng các thuộc điều trị cơ bản (ĐMARDs) trước đó. Enbrel cho thấy cải thiện chức năng vận động ở bệnh nhân viêm khớp vảy nên và làm giảm tỉ lệ tiến triển của tổn thương khớp ngoại biên khi đánh giá bằng X-quang ở nhóm bệnh nhân viêm đa khớp dạng thấp đối xứng.
Viêm cột sống dính khớp (Axial spondyloarthritis)
Viêm cột sống dính khớp (Ankylosing spondylitis, AS)
Điều trị cho bệnh nhân người lớn bị viêm cột sống dính khớp thể hoạt động nghiêm trọng có đáp ứng không đây đủ với phương pháp trị liệu thông thường.
Viêm cột sống dính khớp thể cột sống (thể trục) không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang
Điều trị cho bệnh nhân người lớn bị viêm cột sống dính khớp nặng không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang và có các dấu hiệu viêm rõ ràng thể hiện qua bằng chứng, tăng protein phản ứng C (C-reactive protein, CRP) và/hoặc chụp cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging, MRI), có đáp ứng không dây đủ với các thuốc chống viêm không steroid (non-steroidal anti-inflammatory drugs, NSAIDs).
Bệnh mảng vảy nến
Điều trị cho bệnh nhân người lớn bị mảng vảy nến mức độ từ vừa đến nang, không đáp ứng, hoặc bị chống chỉ định , hoặc không dung nạp với các thuốc điều trị toàn thân khác, bao gồm ciclosporin, methotrexat hoặc psoralen và tia tử ngoại A (PUVA) (xem mục 5.1).
Bệnh mảng vảy nến ở trẻ em
Điều trị bệnh mảng vảy nên mạn tính nặng ở trẻ em và thiểu niên từ 6 tuổi trở lên khi không thể kiểm soát đầy đủ hoặc không dung nạp với các trị liệu điều trị toàn thân khác hoặc quang trị liệu.
4.2. Liều dùng – Cách dùng:
Cách dùng :
Enbrel được dùng bằng cách tiêm dưới da. Bột Enbrel pha tiêm cần được pha trong 1ml dung môi trước khi dùng (xem mục 6.6).
Hướng dẫn cụ thể cách pha và sử dung dung dịch Enbrel sau khi pha được ghi rõ trong mục 6.6, “ Hướng dẫn pha và tiêm thuốc Enbrel”.
Cảnh báo dặc biệt về xừ Ịỷ và loại bỏ
Pha bột Enbrel trong điều kiện vô khuẩn bằng cách tiêm thật chậm 1 mL dung môi vào ống thuốc. Nhẹ nhàng xoay tròn để tránh tạo bọt. Nếu có một ít bọt là bình thường. Không lắc hay làm rung mạnh. Thuốc tan trong vòng dưới 10 phút,
Nắp cao su của ống dung môi chứa latex (cao su khô thiên nhiên). Bệnh nhân hoặc người chăm sóc cần liên hệ với bác sĩ trước khi dùng Enbrel nếu nắp cao su của ống dung môi sẽ được sử dụng bởi hoặc được đưa cho người đã từng hoặc có khả năng bị quá mẫn (dị ứng) với latex.
Bệnh nhân hoặc thân nhân chăm sóc khi sử dụng Enbrel phải được hướng dẫn sử dụng kim và xi lanh đúng cách và cẩn thận để không dùng lại các vật này.
Phần bột, dung dịch Enbrel không sử dụng, xi lanh, hoặc các vật liệu thừa khác cần phải xử lý theo quy định
Liều dùng:
Điều trị với Enbrel cần được bắt đầu và giám sát bởi bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị viêm khớp dạng thấp, viêm khớp tự phát thiếu niên, viêm khớp vảy nến, viêm cột sống dính khớp, viêm cột sống dính khớp không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang, mảng vảy nến và mảng vảy nến ở trẻ em.
Liều dùng
Viêm khớp dạng thấp
Liều khuyến nghị là 25 mg Enbrel dùng một tuần hai lần. Lựa chọn khác là 50 mg dùng một tuần một lần cũng cho thấy an toàn và hiệu quả (xem mục 5.1).
Viêm khớp vảy nến, viêm cột sống dính khớp và viêm cột sống dính khớp thể cột sống không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang
Liều khuyến nghị là 25 mg Enbrel dùng một tuần hai lần hoặc 50 mg dùng một tuần một lần.
Đối với tất cả các chỉ định nếu trên, theo dữ liệu đã có sẵn thì thông thường bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng trong vòng 12 tuần điều trị. cần đánh giá lại cẩn thận có nên tiếp tục điều trị hay không nếu bệnh nhân không đáp ứng trong khoảng thời gian đó
Mảng vảy nến
Liều khuyến nghị của Enbrel là 25 mg dừng một tuần hai lần hoặc 50 mg dùng một tuần một lần. Cũng có thể dùng liều 50 mg một tuần hai lần cho tới tối đa 12 tuần, sau đó nếu cần thiết tiếp tục dùng liều 25 mg một tuần hai lần hoặc 50 mg một tuần một lần. Cần tiếp tục điều trị bằng Enbrel cho đến khi bệnh thuyên giảm, tối đa là cho tới 24 tuần. Việc tiếp tục trị liệu này sau 24 tuần có thể phù hợp cho một số bệnh nhân người lớn (xem mục 5.1). Cần ngưng điều trị ở bệnh nhân không có đáp ứng sau 12 tuần. Nếu được chỉ định điều trị lại bằng Enbrel. Cần tuần thủ hướng dẫn tương tự về thời gian điều trị. Liều dùng là 25 mg một tuần hai lần hoặc 50 ma một tuần một lần.
Các đối tượng đặc biệt
Bệnh nhân suy gan và suy thận
Không cần điều chỉnh liều.
Bệnh nhân lớn tuổi (> 65 tuổi)
Không cần điều chỉnh liều. Liều lượng và cách dùng tương tự như cho người lớn từ 18-64 tuổi.
Nhóm đối tượng trẻ em
Viêm khớp tự phát thiếu niên
Liều khuyến nghị là 0,4 mg/kg (tối đa 25 mg mỗi liều) một tuần hai lần bằng cách tiêm dưới da cách nhau 3-4 ngày giữa các liều dùng hoặc 0,8 mg/kg (tối đa 50 mg mỗi liều) một tuần một lần.
Cần xem xét ngưng dùng thuốc điều trị ở bệnh nhân không đáp ứng sau 4 tháng.
Chưa có thử nghiệm lâm sảng chính thức nào được tiến hành trên trẻ em từ 2 đến 3 tuổi. Tuy nhiên, từ một số dữ liệu về tính an toàn từ cơ sở dữ liệu theo dõi bệnh nhân cho thấy tính an toàn ở trẻ em từ 2 đến 3 tuổi tương tự như tính an toàn quan sát được ở người lớn và trẻ em từ 4 tuổi trở lên khi dùng liều 0,8 mcg/kg tiêm dưới da hàng tuần (xem mục 5.1).
Nhìn chung, Enbrel không được sử dụng ở trẻ em dưới 2 tuổi trong chỉ định điều trị viêm khớp tự phát thiếu niên.
Mảng vảy nến ở trẻ em (từ 6 tuổi trở lên)
Liều khuyến nghị là 0,8 mg/kg (tối đa 50 mg mỗi liều) một tuần một lần cho tới tối đa 24 tuần. Cần ngưng dùng thuốc cho bệnh nhân không đáp ứng sau 12 tuần.
Nếu được chỉ định điều trị lại bằng Enbrel, cần tuần thủ hướng dẫn trên về thời gian điều trị, Liều lượng là 0,8 mg/kg (tối đa 50 mg mỗi liều) một tuần một lần.
Nhìn chung. Enbrel không được sử dụng ở trẻ em dưới 6 tuổi trong chỉ định điều trị mảng vảy nến.
4.3. Chống chỉ định:
Quá mẫn với etanercept hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Nhiễm khuẩn huyết hoặc có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết.
Không nên bắt đầu điều tri Enbrel cho bệnh nhân bị nhiễm khuẩn tiến triển nghiêm trọng bao gồm cả nhiễm khuẩn mạn tính hoặc tại chỗ.
4.4 Thận trọng:
Nhiễm khuẩn
Các nhiễm khuẩn nặng, bao gồm nhiễm khuẩn huyết và lao (tuberculosis, TB), đã được báo cáo xuất hiện khi sử dụng Enbrel (xem phẩn 4.8). Một số trường hợp nhiễm khuẩn đã dẫn đến tử vong. Những trường hợp này là nhiễm khuẩn do vi khuẩn, mycobacteria, nấm, virus và ký sinh trùng (kể cả protozoa). Đã có báo cáo về nhiễm khuẩn cơ hội (bao gồm nhiễm listeria và legionella). cần theo dõi chặt chẽ những bệnh nhân xuất hiện nhiễm khuẩn mới trong khi đang điều trị với etanercept. Ngùng dùng thuốc nếu bệnh nhân bị nhiễm khuẩn nặng, cần thận trọng khi dùng Enbrel ở bệnh nhân có tiền sừ nhiễm khuẩn mạn tính hoặc tái phát hoặc những bệnh nhân có khuynh hướng dễ bị nhiễm khuẩn (xem phẩn 4.3 và 4.8).
Bệnh nhân cần được đánh giả về tình trạng nhiễm khuẩn trước, trong và sau khi điều trị bằng Enbrel. cần lưu ý rằng thời gian bán thải của etanercept là 80 giờ (độ lệch chuẩn 28 giờ; dao động từ 7 đến 300 giờ).
Nhiễm khuẩn cơ hội, bao gồm nhiễm nấm xâm lấn đã được báo cáo ở bệnh nhân dùng Enbrel. Trong một số trường hợp, nhiễm nấm và các nhiễm khuẩn cơ hội khác không được phát hiện khiến cho việc điều trị bị chậm trễ, đôi khi dẫn đến tử vong. Trong nhiều báo cáo, bệnh nhân cũng dùng đồng thời nhiều thuốc khác bao gồm cả thuốc ức chế miễn dịch. Khi đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn của bệnh nhân, bác sĩ cần xem xét nguy cơ của bệnh nhân trước các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội liên quan (ví dụ: phơi nhiễm các loại nấm địa phương gây bệnh).
Bệnh lao
Bệnh lao (bao gồm các dạng lao ngoài phổi hoặc lao lan tỏa) đâ được ghi nhận ở bệnh nhân dùng các tác nhân kháng TNF, trong đó có Enbrel. Bệnh lao có thể do vi khuẩn lao đang ở thể tiềm ẩn hoạt động lại hoặc do bị nhiễm mới.
Trước khi tiến hành điều trị bằng Enbrel, tất cả bệnh nhân có nguy cơ bị lao đều phải được đánh giá để biết được tình trạng bị nhiễm lao thể hoạt động hay tiềm ẩn. cần điều trị dự phòng nhiễm lao tiềm ẩn trước khi bắt đầu điều trị bằng Enbrel. Một số bệnh nhân khi xét nghiệm lao đã cho kết quả âm tính với lao tiềm ẩn trước khi dùng Enbrel nhưng sau đó đã bị lao thể hoạt động. Bác sĩ phải theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh lao ở bệnh nhân dùng Enbrel, bao gồm cả những bệnh nhân khi xét nghiệm lao đã cho kết quả âm tính với lao tiềm ẩn. cần tham khảo các hướng dẫn tại địa phương về bệnh lao. Tỉ lệ nhiễm lao ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có xu hướng tăng.
Viêm gan B tái hoạt động
Viêm gan B tái hoạt động đã được báo cáo ở bệnh nhân trước đó đã bị nhiễm virus viêm gan B và dùng đồng thời các tác nhân kháng TNF, bao gồm Enbrel, Phần lớn các báo cảo này đã xảy ra ở bệnh nhân dùng đồng thời cả các thuốc ức chế miễn dịch khác, các thuốc này cũng có thể góp phần làm hoạt hóa virus viêm gan B. Bệnh nhân có nguy cơ viêm gan B cần được đánh giá về bằng chứng nhiễm virus viêm gan B trước khi dùng trị liệu kháng TNF.
Cần thận trọng khi dùng Enbrel ở bệnh nhân trước đó đã bị nhiễm virus viêm gan B. Nhũng bệnh nhân này cần được theo dõi về các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhiễm virus viêm gan B thể hoạt động.
Làm trầm trọng hon tình trạng viêm gan C
Đã có báo cáo về tình trạng viêm gan c nặng hơn ở bệnh nhân dùng Enbrel mặc dù mối quan hệ nhân quả với Enbrel chưa được xác lập.
Điều trị đồng thời với anakinra: Dùng đồng thời Enbrel và anakinra có thể tăng nguy cơ nhiễm khuẩn nặng và giảm bạch cầu trung tính. Sự kết hợp 2 thuốc này chưa chứng minh được lợi ích trên mặt lâm sàng nên khuyến cáo không nên dùng (xem mục 4.5).
Điều trị đồng thời với abatacept: Trong các nghiên cứu lâm sàng, dùng đồng thời abatacept và Enbrel làm tăng tần suất xuất hiện các tác dụng phụ nghiêm trọng. Sự kết hợp 2 thuốc này chưa chứng minh được lợi ích lâm sàng nên khuyến cáo không nên dùng (xem mục 4.5).
U hạt Wegener
Trong nghiên cứu đối chứng với giả dược gồm 180 bệnh nhân bị bệnh u hạt Wegener, dùng thểm Enbrcl vảo liệu trinh điều trị chuẩn (bao gồm cyclophosphamid và steroid liều cao) không tạo hiệu quả cao hơn so với liệu trình điều trị chuẩn đơn thuần. Tỉ lệ bị các khối u ác tính nhiều loại không phải ở da cao hơn đáng kể trong nhóm bệnh nhân điều trị bằng Enbrel so với nhóm chứng. Việc dùng Enbrel trong điều trị u hạt Wegener không được khuyến cáo.
Viêm gan do rượu
Trong nghiên cứu 48 bệnh nhân nhập viện bị viêm gan từ vừa đến nặng do rượu (thang điểm mô hình bệnh gan giai đoạn cuối (Model of End-Stage Liver Disease (MELD)) = 25) điều trị bằng Enbrel hoặc giả dược, thì Enbrel không có hiệu quả và tỉ lệ tử vong ở nhóm dùng Enbrel cao hơn đáng kể sau 6 tháng. Tỉ lệ nhiễm khuẩn ở nhóm dùng Enbrel cũng cao hơn. Không nên dùng Enbrel cho bệnh nhân điều trị viêm gan do rượu. Bác sỹ cần thận trọng khi dùng Enbrel cho bệnh nhân bị viêm gan do rượu ở mức độ từ vừa đển nặng.
Trong trường hợp dùng Enbrel dạng bột và dung môi pha tiêm: Nắp cao su của xi lanh đựng dung môi có chứa latex (cao su thiên nhiên khô). Bệnh nhân hoặc người chăm sóc cẩn được bác sỹ tư vấn trước khi dùng thuốc nếu Enbrel được dùng cho người được biết đến hoặc có nguy cơ quả mẫn với latex.
Phản ứng dị ứng
Đã có báo cáo phản ứng dị ứng với Enbrel. Nếu gặp bất kỳ phản ứng phản vệ hoặc dị ứng nghiêm trọng nào, ngừng sử dụng Enbrel ngay (xem phần 4.8).
Ức chế miễn dịch
Liệu trình điều trị kháng TNF, bao gồm Enbrel, có thể ảnh hưởng đến khả năng đề kháng với nhiễm khuẩn và u ác tính vì TNF làm trung gian cho phản ứng viêm và điều hòa các đáp ứng miễn dịch tế bào.
U ác tính và roi loạn tăng sinh lympho
U hạch ác tính và bệnh lý huyết học ác tính (ngoại trừ ung thư da)
Đã nhận được các báo cáo về các khối u ác tính trên các vị trí khác nhau trong giai đoạn hậu mãi. Trong nhiều nghiên cứu lâm sàng có đối chứng về đối kháng TNF. phần lớn các ca u lympho được ghi nhận ở bệnh nhân dùng một thuốc đối kháng TNF so với nhóm chứng. Tuy nhiên, tần suất xảy ra rất hiếm và giai đoạn theo dõi đối với bệnh nhân nhóm chứng ngắn hơn bệnh nhân điều trị bằng thuốc đối kháng TNF. Các trường hợp ung thư máu đã được báo cáo ở bệnh nhân điều trị bằng thuốc đối kháng TNF. Nguy cơ u lympho và ung thư máu tăng lên ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp kèm theo các bệnh viêm tiến triển trong thời gian dài, những tình trạng này gây khó khăn trong việc đánh giá nguy cơ. Phân tích tương quan ngẫu nhiên trong các thử nghiệm lâm sàng về bệnh viêm khớp dạng thấp và Enbrel không khẳng định cũng như không loại trừ khả năng tăng nguy cơ xuất hiện u ác tính
U ác tính (đặc biệt là U lympho Hodgkin và không Hodgkin) đã được báo cáo trên trẻ em và thanh thiếu niên điều trị bằng chất đối kháng TNF. trong đó có Enbrel, một số trường hợp gây tử vong. Phần lớn các bệnh nhân này dều đang dùng đồng thời chất ức chế miễn dịch.
Dựa trên những kiến thức hiện nay, không loại trừ nguy cơ bị U lympho, u hạch ác tính hoặc bệnh lý huyết học ác tính ở bệnh nhân điều trị bằng thuốc kháng TNF.
Ưng thư da
Ung thư da hắc tố và ung thư da không hắc tố (Non-melanoma skin care – NMSC) được báo cáo trên bệnh nhân dùng các chất đốikháng TNF, trong đó có Enbrel. Các trường hợp ung thư biểu mô tế bào Merkel đã được báo cáo nhung rất hiếm gặp ở bệnh nhân điều trị bằng Enbrel. Khuyến cáo kiểm tra da định kỳ cho tất cả các bệnh nhân có nguy cơ ung thư da.
Tổng hợp các kết quả của nghiên cứu lâm sàng có đối chứng với Enbrel cho thấy số trường hợp bị ung thư da không hắc tố ở nhóm dùng Enbrel cao hơn nhóm chứng, đặc biệt là trên bệnh nhân bị bệnh vảy nến
Các phản ứng huyết học
Đã có một vài báo cáo về giảm toàn thể huyết cầu (hiếm gặp) và thiếu máu bất sản (rất hiếm gặp) ở bệnh nhân được điều trị bằng Enbrel, một số trường hợp gây tử vong, cần thận trọng khi dùng Enbrel cho bệnh nhân có tiền sử bị rối loạn huyết học. Tất cả bệnh nhân cần được thông báo là nếu họ có dấu hiệu hoặc triệu chứng gợi ý về rối loạn huyết học hay nhiễm khuẩn (ví dụ: sốt dai dẳng, đau họng, bầm tím, chảy máu, xanh xao) trong khi dùng Enbrel, phải thông báo với bác sỹ ngay lập tức. Các bệnh nhân này phải được xét nghiệm công thức máu ngay, nếu đã xác định có rối loạn huyết học, cần ngừng ngay etanercept.
Sự hình thành kháng thể tự miễn
Điều trị bằng Enbrel có thể liên quan đến sự hình thành kháng thể tự miễn (xem phần 4.8).
Tiêm chủng
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi, có kiểm soát, đối chứng với giả dược trên bệnh nhân viêm khớp vảy nến, 184 bệnh nhân cũng được tiêm chủng với vắc xin polysaccharid đa trị chống phế cầu vào tuần thứ 4. Trong nghiên cứu này, hầu hết các bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với Enbrel có khả năng tăng đáp ứng có hiệu quả của tế bào miễn dịch B đối với vắc xin đa trị chống phế cầu, nhưng định lượng hơi thấp hơn và một vài bệnh nhân lại có định lượng cao hơn hai lần so với những bệnh nhân không được điều trị với Enbrel. Ý nghĩa lâm sàng của hiện tượng này vẫn chưa được rõ. Không nên tiêm vắc xin sống trong quá trình đang điều trị bằng Enbrel. Nếu có thể, những bệnh nhân nhi nên được tiêm ngừa tối da theo hướng dẫn tiêm phòng hiện nay trước khi bắt đầu điều trị bằng Enbrel.
Rối loạn thần kình
Mặc dù chưa có thử nghiệm lâm sàng đánh giá trị liệu Enbrel trên bệnh nhân đa xơ cứng, các thử nghiệm lâm sàng về các chất đối kháng TNF khác với đối tượng bệnh nhân này cho thấy có sự gia tăng mức hoạt hóa của bệnh. Hiếm gập một vài báo cáo về rối loạn mắt myelin ở hệ thần kinh trung ương (central nervous system, CNS) ở bệnh nhân điều trị bằng Enbrel (xcm phần 4.8). Ngoài ra, các báo cáo về bệnh đa thần kinh mắt myelin ở ngoại biên (bao gồm cả hội chứng Guillain-Barré) cũng rất hiếm gặp. Cần đánh giá cẩn thận lợi ích/ nguy cơ, bao gồm đánh giá về thần kinh khi kê đơn Enbrel để điều trị cho những bệnh nhân đã từng hoặc mới khởi phát bệnh mất myelin hoặc những người có nguy cơ cao bị bệnh này.
Suy tim sung huyết
Đã có một số báo cáo hậu mãi về tình trạng suy tim sung huyết trở nên nặng hơn, có hoặc không xác định được yếu tô tác động trên bệnh nhân dùng EnbreL 2 nghiên cứu lâm sàng quy mô lớn đánh giá việc sử dụng Enbrel trong điều trị suy tim sung huyết đã kết thúc sớm vì không có hiệu quả. Mặc dù chưa có kết luận, dừ liệu từ một trong những thử nghiệm này đưa ra khả năng bệnh suy tim sung huyết có thể trở nên nặng hơn ở những bệnh nhân dùng Enbrel. Ngoài ra, một thử nghiệm lâm sàng đánh giá việc sử dụng infliximab (một kháng thể đơn dòng kết hợp với TNF-alpha) trong điều trị suy tim sung huyết bị kết thúc sớm do tăng tỉ lệ tử vong ớ nhóm bệnh nhân điều trị infliximab. Bác sỹ cần cân nhắc khi dùng Enbrel cho bệnh nhân bị suy tim sung huyết.
Giâm đirờng huyết ở bệnh nhân đang điều trị đái tháo đuờng
Đã có báo cáo về tinh trạng giảm đường huyết sau khi bắt đầu dùng Enbrel cho bệnh nhân dùng thuốc điều trị đái tháo đường, có thể cần phái giảm lượng thuốc điều trị dái tháo đường trong một số trường hợp.
Bệnh viêm ruột ở bệnh nhân viêm khớp tụ phát thiếu niên
Đã có báo cáo về bệnh viêm ruột trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên điều trị bằng Enbrel, Enbrel không có hiệu quả trong điều trị bệnh viêm ruột. Mối quan hệ nhân quả với Enbrel còn chưa rõ ràng vì các biểu hiện lâm sàng của viêm ruột cũng được ghi nhận trên các bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên không được điều trị.
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.
Chưa có nghiên cứu vể ảnh hưởng của thuốc trên khả năng lái xe và vận hành máy móc.
4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:
Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: D
US FDA pregnancy category: B
Thời kỳ mang thai:
Chưa xác lập được tính an toàn khi sử dụng Enbrel cho phụ nữ cố thai. Chỉ dùng Enbrel trong thời gian mang thai nếu thật cần thiết.
Chưa có dữ liệu tiền lâm sàng về độc tính trước và sau khi sinh của etancrcept cũng như tác động của etanercept trong thời gian mang thai và trên khả năng sinh sản. Nghiên cứu về độc tính trong quá trình phát triển thuốc được tiến hành trên chuột và thỏ. Phơi nhiễm toàn thân của chuột và thỏ đánh giá theo diện tích dưới đường cong (AUC) của etanercept cao hơn 21 đến 25 lần so với sử dụng thuốc trên người ở liều thông thường là 50 mg/tuần và xấp xỉ khoảng từ 10 đến 13 lần so với sử dụng thuốc trên người ở liều tối đa khuyển cáo của etanercept là 50mg X 2 lần/tuần (trong bệnh vảy nến). Chưa có bằng chứng về tác hại trên thai nhi của chuột hoặc thỏ cũng như chuột sơ sinh do etanercept. Các nghiên cứu về sinh sản trên động vật không phải lúc nào cũng dự đoán được phản ứng trên người.
Etanercept đi qua nhau thai và được phát hiện trong huyết thanh của trẻ sơ sinh có người mẹ đã điều trị bằng Enbrel khi mang thai. Chưa rõ tác động về mặt lâm sàng của việc này, tuy nhiên, trẻ sơ sinh có thể bị tăng nguy cơ nhiễm khuẩn. Nhìn chung, không nên sử dụng vắc xin sống cho trẻ nhũ nhi trong 16 tuần sau khi người mẹ dùng liều Enbrel cuối cùng.
Thời kỳ cho con bú:
Chưa có nghiên cứu về tính an toàn khi sử dụng Enbrel cho phụ nữ cho con bú. Etanercept được báo cáo là có tiết qua sữa mẹ sau khi được tiêm dưới da. ở chuột cống cho con bú, khi tiêm dưới da, etanercept bài tiết qua sữa và có trong huyết thanh của chuột con. Vì globulin miễn dịch và nhiều thuốc có thể bài tiết qua sữa mẹ. cần cân nhắc khi quyết định ngừng cho con bú hay ngừng dùng Enbrel trong thời gian cho con bú.
4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):
Người trưởng thành
Tỉ lệ bệnh nhân ngừng thuốc do tác dụng không mong muốn trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp là giống nhau giữa 2 nhóm dùng Enbrel và giả dược.
Phản ứng tại vị trí tiêm
Bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng điều trị bằng Enbrel có tỉ lệ phản ứng tại vị trí tiêm (hồng ban và/hoặc ngửa, đau, sưng) cao hơn đáng kể so với nhóm dùng giả dược. Tần suất phản ứng tại vị trí tiêm cao nhất trong tháng đầu tiên và giảm dần. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các phàn ứng này nhìn chung chi kẻo dài một thời gian ngắn với thời gian trung bình là 4 ngày. Một số bệnh nhân bị phàn ứng tại vị trí tiêm cũng đã từng bị phản ứng tại các vị trí tiêm trước đó.
Trong kinh nghiệm hậu mãi, chảy máu tại vị trí tiêm và bẩm tím được ghi nhận có liên quan đến điều trị bằng Enbrel.
Nhiễm khuẩn
Nhiêm khuẩn nặng và gây tử vong đã được báo cáo, các tác nhân gây bệnh được báo cáo bao gồm vi khuẩn, mycobacteria (bao gồm vi khuẩn lao), virus và nấm. Nhiễm khuẩn cơ hội cũng được báo cáo bao gồm nhiễm nấm xâm lấn, nhiễm ký sinh trùng (protozoa), virus (bao gồm herpes zoster), nhiễm khuẩn (bao gồm Listeria và Legionella, và nhiễm mycobacteria thể không điển hỉnh) (xem phần 4.4). Các trường hợp bị nhiễm nấm xâm lấn được báo cáo nhiều nhất bao gồm Candida, Pneumocystis, Aspergillus và Histopiasma.
Trong các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, tỉ lệ nhiễm khuẩn nghiêm trọng (gây tử vong, đe dọa tính mạng, cần nhập viện hoặc cần truyền kháng sinh tĩnh mạch) và nhiêm khuẩn không nghiêm trọng là tương tự giữa nhóm dùng Enbrel và giả dược khi hiệu chỉnh theo thời gian dùng thuốc/giả dược. Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên là nhiễm khuẩn không nghiêm trọng được báo cáo phổ biến nhất.
Dữ liệu từ nghiên cứu lâm sàng ở bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết dưa ra giả thuyết ràng điều trị Enbrel có thể làm tăng tỉ lệ tử vong ở những bệnh nhân này.
U ác tính và rối loạn tăng sinh lympho bào
Báo cáo về u ác tính ảnh hưởng đến nhiều vị trí khác nhau đã được ghi nhận trong giai đoạn hậu mãi.
Đã có báo cáo về u ác tính trong một thử nghiệm lâm sàng cho bệnh nhân điều trị bệnh u hạt Wegener (xem phần 4.4).
Tự kháng thể
Trong thử nghiệm có đối chứng, tỉ lệ bệnh nhân dương tính với kháng thể kháng nhân mới (>1:40), kháng thể ADN kháng chuỗi kép mới và kháng thể kháng cardiolipin mới tăng lên khi so sánh với nhóm dùng giả dược. Chưa biết ảnh hưởng của việc điều trị Enbrel trong thời gian dài đến sự phát triển bệnh tự miễn.
Đã có các báo cáo hiếm gặp trên bệnh nhân, bao gồm cả những người có yếu tố dạng thấp RA dương tính, đã xuất hiện các tự kháng thể liên quan đến hội chứng giống lupus hoặc có mẩn đó tương tự như lupus da bán cấp hoặc lupus hình đĩa theo các biểu hiện lâm sàng hoặc sinh thiết (xem bằng dưới: Các tác dụng không mong muốn khác)
Các tác dụng không mong muốn khác
Bằng các tác dụng không mong muốn sau dựa trên các thử nghiệm lâm sàng và/hoặc tỉ lệ báo cáo tự phát sau khi thuốc lưu hành:
Bảng các tác dụng không mong muốn
Phân loại theo hệ thống/cơ quan | Rất thưòng gặp >1/10 | Thường gặp >1/100 đến 1/10 | ít gặp >1/1.000 đến <1/100 | Hiếm gặp >1/10.000 đến <1/1.000 | Rất hiếm gặp <1/10.00 | Tần số không rõ (không thể ước lượng từ dữ liệu có sẵn) |
Nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng | Nhiễm khuẩn(bao gồm nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm bàng quang, nhiễm khuẩn da) | Nhiễm khuẩn nghiêm trọng (bao gồm viêm phổi, viêm mô tế bào, viêm khớp nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết và nhiễm ký sinh trùng) | Lao, nhiễm mầm bệnh cơ hội (bao gồm nấm xâm lấn, nhiễm khuẩn, mycobacreria không điên hình, nhiễm virus và Legionella) (xem mục 4.4) | Tái hoạt hóa viêm gan B: | ||
u lành tính, ác tính và không xác định (bao gồm cả u nang và polyp) | Ung thư da không hắc tố (xem mục 4.4) | u hắc tố (xem mục 4.4) | Ung thư biếu mô tế bào Merkel (xem mục 4.4) | |||
Rối loạn máu và hệ bạch huyết | Giảm tiểu cầu | Thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tinh, giảm tế bào máu (xem mục 4.4) | Thiếu máu không tái tạo (xem mục 4.4) | |||
Rối loạn hệ miễn dịch | Phản ứng dị ứng , hình thành kháng thể tự miễn | Viêm mạch máu hệ thống (bao gồm viêm mạch máu AN CA dương tính) | Dị ứng nghiêm trọng/phản ứng phản vệ (bao gồm có thất phế quản), bệnh u hạt lympho lành tính | Hội chứng kích hoạt đại thực bào | ||
Rối loạn hệ thần kinh | Động kinh, biến cố mất myelin hệ thần kinh trung ương, bao gồm đa xơ cứng và tinh trạng mất myclin cục bộ, chẳng hạn như viêm thần kinh thị giác và viêm tùy ngang (xem mục 4.4) | |||||
Rối loạn mắt | Viêm màng bồ đào, viêm củng mạc | |||||
Rối loạn tim | Làm nặng hơn tình trạng suy tim sung huyết | |||||
Rối loạn hô hấp, ngực và trung thất | Bệnh phổi kẽ (bao gồm xơ hóa phổi và viêm phổi) | |||||
Rối loạn gan mật | Tăng men gan, viêm gan tự miễn | |||||
Rối loạn da và mô dưới da | Ngứa | Phát ban. nổi mề đay, phù mạch, bệnh vảy nến (mới phát hoặc làm nặng hơn, bao gồm lất cả các phân nhóm) và phát ban thể vảy nến | Viêm mạch da (bao gồm viêm mạch máu quá mẫn), hội chứng Stevens-Johnson, hồng ban đa dạng | Hoại tử biểu bì nhiễm độc
|
||
Rối loạn cơ xương và mô liên kêt | Lupus ban đó da bán cấp, lupus ban đó dạng đĩa. hội chứng giống lupus | |||||
Roosi loạn
chung vaf tình trạng tại chỗ tiêm thuốc |
Phản ứng tại chỗ tiêm
(bao gồm sung, huyết, ngứa, đau và sưng) |
Sốt |
Nhóm đối tượng tré em
Nói chung, các tác dụng không mong muốn trên bệnh nhân nhi cũng tương tự trên người trưởng thành về các loại tác dụng phụ cũng như tần suất gặp.
Tác dụng không mong muốn ở bệnh nhân trẻ em bị viêm khớp tự phát thiếu niên
Bệnh nhân bị viêm khớp tự phát thiếu niên điều trị với Enbrel có ti lệ phản ứng tại vị trí tiêm (hồng ban và/hoặc ngứa, đau hoặc sưng) cao hơn đáng kể khi so với nhóm dùng giả dược trong các thử nghiệm lâm sàng.
Nhiễm khuẩn là tác dụng không mong muốn phổ biến nhất trên bệnh nhân nhi dùng Enbrel và xảy ra với tỉ lệ tương đương ở nhóm dùng giả dược. Các loại nhiễm khuẩn được báo cáo trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên nói chung là nhẹ và giống với các loại nhiễm khuẩn trên bệnh nhân nhi ngoại trú.
Trong thử nghiệm làm sàng, có 2 trường hợp bị thủy đậu với các dấu hiệu và triệu chứng như viêm mảng não vô khuẩn được báo cáo trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên dùng Enbrel.
Có 4 báo cáo về hội chứng hoạt hóa đại thực bào ở các thử nghiệm lâm sàng cho bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên.
Tác dụng không mong muốn ở bệnh nhân nhi mắc bệnh mảng vảy nến
Trong nghiên cứu 48 tuần trên 211 trẻ em tuổi từ 4 đến 17 bị bệnh mảng vảy nến, các tác dụng không mong muốn được báo cáo là tương tự như trong các nghiên cứu trước đây trên bệnh nhân mảng vảy nến trưởng thành.
Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Ngừng sử dụng thuốc. Với các phản ứng bất lợi nhẹ, thường chỉ cần ngừng thuốc. Trường hợp mẫn cảm nặng hoặc phản ứng dị ứng, cần tiến hành điều trị hỗ trợ (giữ thoáng khí và dùng epinephrin, thở oxygen, dùng kháng histamin, corticoid…).
4.8 Tương tác với các thuốc khác:
Điều trị đồng thời với Anakinra: Tỉ lệ nhiễm khuẩn nặng cao hơn được ghi nhận trên bệnh nhân điều trị bằng Enbrel và anakinra khi so sánh với các bệnh nhân dùng Enbrel đơn độc (theo dữ liệu tiền sử bệnh). Ngoài ra trong nghiên cứu mù đôi đối chứng với giả dược ở bệnh nhân đã điều trị với methotrexat, nhóm bệnh nhân dùng Enbrel và anakinra có tỉ lệ bị nhiễm khuẩn nặng và giảm bạch cầu trung tính cao hơn nhóm dùng Enbrel đơn trị (xem phẩn 4.4).
Điều trị đồng thời với abatacept: Trong nhiều nghiên cứu lâm sàng, dùng đồng thời abataccpt và Enbrel làm tăng tỉ lệ tác dụng phụ nghiêm trọng. Sự kết hợp giữa 2 thuốc này không chứng minh được lợi ích lâm sàng do đó không nên kết hợp (xem phần 4.4).
Điều trị đồng thời với sulfasalazin: Trong một nghiên cứu lâm sàng so sánh bệnh nhân dùng liều sulfasalazin đã xác lập, và nhóm bệnh nhân dùng thểm Enbrel, bệnh nhân ở nhóm dùng kết hợp bị giảm đảng kể số lượng bạch cầu so với 2 nhóm dùng Enbrel hoặc sulfasalazin đơn trị. Chưa biết ý nghĩa lâm sàng của tương tác này.
Không có tương tác
Chưa ghi nhận tương tác giũa Enbrel với glucocorticoid, salicylat (ngoại trừ sulfasalazin), các thuốc chống viêm không steroid, thuốc giảm đau hoặc methotrexat trong thử nghiệm lâm sàng với các bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp.
Methotrexat không có tác động trên được động học của Enbrel.
Không ghi nhận tưomg tác dược động học thuốc-thuốc trong các nghiên cứu với digoxin và warfarin
4.9 Quá liều và xử trí:
Chưa xác lập được liều dung nạp tối đa của etanercept trên người. Tiêm tĩnh mạch liều lên tới 60 mg/m2 cho người tình nguyện khỏe mạnh trong nghiên cứu nội độc tố trong máu không đưa ra bằng chứng về giới hạn liều do độc tính. Mức liều cao nhất được đánh giá trên bệnh nhân viêm khớp là liều tiêm tĩnh mạch 32 mg/m2 tiếp theo là tiêm dưới da 16 mg/m2 (tương đương khoảng 25 mg) dùng 2 lần/tuần.
Etanercept không gây tử vong hoặc các dấu hiệu nhiễm độc đáng kể nào trên chuột nhắt và chuột cống khi dùng liều đơn tiêm dưới da 2000 mg/kg hoặc liều đơn tiêm tĩnh mạch 1000 mg/kg. Etanercept không thể hiện độc tính giới hạn liều hoặc độc tính cơ quan đích trên khỉ cynomolgus dùng liều tiêm dưới da 15mg/kg, 2 lần/tuần từ 4 đến 26 tuần, nồng độ thuốc trong huyết thanh tính theo diện tích dưới đường cong là cao hơn 27 lần so với trên người khi dùng liều khuyến cáo là 25 mg.
Không ghi nhận độc tính giói hạn liều trong thử nghiệm lâm sàng với bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Chưa có thuốc giải độc cho etanercept.
5. Cơ chế tác dụng của thuốc :
5.1. Được lực học:
Nhóm trị liệu
Etanercept (INN)
Chất ức chế miễn dịch chọn lọc (TNF-alpha)
Mã ATC: L04AB01
Etanercept là một protein dung hợp của thụ thể TNFR (Tumour Necrosis Factor Receptor – thụ thể yếu tố hoại tử khối u) p75 và tiểu phần Fc, được sàn xuất bởi kỹ thuật tải tổ hợp ADN trên hệ thống biểu hiện gen của động vật có vú ở tế bào buồng trứng chuột đồng Trung Hoa (Chinese hamster ovary – CHO). Cụ thể, etanercept là dimer của một protein dung hợp được thiết kế bằng công nghệ di truyền bằng cách hợp nhất tiểu phần có khả năng liên kết ngoại bào của thụ thể TNFR2/p75 với tiểu phần Fc của IgGl của người. Thành phần Fc này có chứa cầu nối. vùng CH2 và CH3 nhưng không có vùng CH1 của IgGl.
Tính tan: Etanercept tan trong nước
Phân tử lượng (biểu kiến): 150 kilodalton.
Đặc tính vật lý:
Bột và dung môi pha tiêm: Sau khi pha, dung dịch etanercept trong suốt và không màu với pH 7,4 ± 0,3
Sử dụng ở người già
Không khuyến nghị điều chỉnh liều đặc biệt dựa trên tuổi của bệnh nhân.
Cơ chế hoạt động
Etanercept là dạng dimer tan trong nước của thụ thể p75 TNF có thể gắn với 2 phân tử TNF. Etanercept ức chế việc gắn của cả 2 dạng TNF (TNFa) và lymphotoxin alpha [LTW] (TNFp) với các thụ thể TNF ở bề mặt tế bào, vì thế làm cho TNF bất hoạt về mặt sinh học và ngăn cản các đáp ứng tế bào qua trung gian TNF. TNF là một cytokin chủ yếu trong quá trình viêm ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trưởng thành. TNF và LTa cũng xuất hiện trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên. Nồng độ TNF tăng lên trong hoạt dịch của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm khớp tự phát thiếu niên. Trong viêm khớp vảy nến, sự xâm nhiễm của tế bào viêm trong đó có tế bào T dẫn đến tăng nồng độ TNF trong các tôn thương vảy nến khi so sánh với các tồn thương ở vùng da không bị bệnh. 2 thụ thể riêng biệt của TNF là protein 55 kilodalton (p55) và protein 75 kiỉodalton (p75), cả hai tồn tại trong tự nhiên ở thể gắn kết với màng tế bào và ở thể hoà tan. Hoạt tính sinh học của TNF phụ thuộc vào việc gắn kết với một trong 2 thụ thể này ở bề mặt tế bào. Etanercept có thể cũng điều chinh các đáp ứng sinh học được kiểm soát bởi một số phân tử khác (ví dụ, các cytokin. các phân tử kết dính, hoặc men liều protein) được phát sinh hay điều hòa bởi TNF. Etanercept ức chế hoạt động của TNF in vitro và được chứng minh là có ảnh hưởng đến một số dạng viêm trên động vật bao gồm viêm khớp do collagen trên chuột nhắt.
Hiệu quả lâm sàng
Phần dưới dây đưa ra các dữ liệu từ 4 thử nghiệm trên người trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp, 3 nghiên cứu trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên, 1 nghiên cứu trên người trưởng thành bị viêm khớp vảy nến, 4 nghiên cứu trên người trưởng thành bị viêm cột sống dính khớp, 1 nghiên cứu ở bệnh nhân người lớn bị viêm cột sống dính khớp không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang, 3 nghiên cứu ở bệnh nhân mảng vảy nến và 2 nghiên cứu ở bệnh nhân nhi bị mảng vảy nến.
Bênh nhân người lớn bị viêm khớp dạng thấp
Hiệu quả của Enbrel được đánh giá trong nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với giả dược. Nghiên cứu đánh giá 234 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp tiến triển đã từng thất bại với ít nhất một nhưng không quá 4 thuốc điều trị cơ bản (DMARDs). Enbrel liều 10 mg hoặc 25 mg hoặc giả dược được tiêm dưới da hai lần/tuần trong 6 tháng liên lục. Két quả của thử nghiệm so sánh này được thế hiện theo phần trăm cải thiện bệnh viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn đáp ứng của Hội Thấp Khớp Học Hoa Kỳ (American College of Rheumatology – ACR).
Đáp ứng theo ACR 20 và 50 ở những bệnh nhân điều trị với Enbrel cao hơn ở bệnh nhân điều trị với giả dược ở tháng thứ 3 và thứ 6 (ACR 20: Enbrel 62% và 59%, giả dược 23% và 11% ở lần lượt tháng thứ 3 và tháng thứ 6; ACR 50: Enbrel 41% và 40%, giả dược 8% và 5% ở lần lượt tháng thứ 3 và tháng thứ ố, giá trị p < 0,01 khi so sánh Enbrel với giả dược tại tất cả các thời điểm cho cả đáp ứng ACR 20 và ACR 50).
Khoảng 15% đối tượng điều trị với Enbrel có đáp ứng ACR 70 vào tháng thứ 3 và tháng thứ 6 so với chỉ có dưới 5% số đối tượng trong nhóm giả dược. Trong số các bệnh nhân điều trị với Enbrel, đáp ứng lâm sàng thường thể hiện trong vòng 1 đến 2 tuần sau khi bắt đầu điều trị và gần như luôn luôn xảy ra trong vòng 3 tháng. Đã ghi nhện đáp ứng liên quan đến liều; kết quả với liều 10 mg là trung gian giữa giả dược và liều 25 mg. Enbrel tốt hơn đáng kể so với giả dược trong tất cả các chỉ tiêu của tiêu chuẩn ACR cũng như trong những kết quả đo lường độ tiến triển của bệnh viêm khớp dạng thấp khác không nằm trong tiêu chuẩn đáp ứng ACR như là mức độ cứng khớp buổi sáng. Một bản câu hỏi đánh giá sức khoẻ (Health Assessment Questionnaire – HAQ) được thực hiện sau mỗi 3 tháng trong suốt thử nghiệm, bao gồm các thông tin về mất chức năng, sức lực, sức khỏe tâm thẩn, tình trạng sức khoẻ tồng quát, và các phần đánh giá về sức khỏe liên quan đến viêm khớp. Tất cả các phần của bản câu hỏi này đều cho thấy sự cải thiện ở những bệnh nhân điều trị với Enbrel so sánh với các nhóm chứng vào tháng thứ 3 và thứ 6.
Sau khi ngưng Enbrel. thường thì các triệu chứng của viêm khớp xuất hiện trở lại trong vòng 1 tháng. Điều trị trở lại với Enbrel sau khi ngưng thuốc đến 24 tháng cho kết quả đáp ứng cùng cường độ với những bệnh nhân được điều trị với Enbrel liên tục dựa trên các kết quả của những nghiên cứu mở. Các đáp ứng ổn định và liếp diễn đến 10 năm trong các nghiên cứu điều trị mở kéo dài với bệnh nhân dùng Enbrel liên tục.
Hiệu quả của Enbrel được so sánh với methotrexat trong một nghiên cứu thử hai ngẫu nhiên có đối chứng với methotrexat, với kết quả đánh giá X quang mù là tiêu chí đánh giá cuối cùng trên 632 bệnh nhân trưởng thành bị bệnh viêm khớp dạng thấp tiến triển (thời gian < 3 năm) chưa từng được điều trị với methotrexat. Enbrel liều 10 mg hoặc 25 mg được tiêm dưới da hai lân/tuần đền 24 tháng. Liều methotrexat được tăng từ 7,5 mg/tuần đến tối đa là 20 mg/tuần trong 8 tuần đầu của nghiên cứu và tiếp tục cho đến 24 tháng. Cải thiện lâm sàng bao gồm sự khởi phát tác động trong 2 tuần với Enbrel 25 mg tương đương với kết quả trong các thử nghiệm trước, và được duy trì cho đến 24 tháng. Khởi đầu. bệnh nhân có mức độ mất chức năng vừa phải, với điểm số HAQ trung bình từ 1,4 đến 1,5. Điều trị với Enbrel 25 mg có cải thiện rõ rệt vào tháng thử 12 với khoảng 44% bệnh nhân đạt được diêm sò HAQ bình thường (ít hơn 0,5). Lợi ích này được duy trì trong năm thứ 2 của nghiên cứu này.
Trong nghiên cứu này, tổn thương cấu trúc khớp được đánh giá bằng X quang và thể hiện qua sự thay đổi điểm số TSS (Total Sharp Score) và các thành phần của nó, điểm số bào mòn và điểm số thu hẹp khoảng cách giữa khớp (JSN). Hình ảnh X quang của bàn tay/cổ tay và bàn chân được xem ở thời diêm bắt đầu và tháng thứ 6, 12, và 24. Enbrel liều 10 mg có ít tác dụng hạn chế sự hủy hoại cẩu trúc hơn là liều 25 mg. Enbrel liều 25 mg tôt hơn đáng kê so với methotrexat về điểm số bào mòn ở cả tháng 12 và 24. Sự khác biệt về điểm số TSS và JSN là không đáng kể về mặt thống kê giữa methotrexat và Enbrel 25 mg. Kết quả được thể hiện qua các số liệu dưới đây.
Trong một nghiên cứu khác so sánh với hoạt chất, mù đôi và ngẫu nhiên, hiệu quá lâm sàng, độ an toàn và tiên triển X quang ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị với Enbrel đơn trị (25 mg 2 lần/ngày), với methotrexat đơn trị (7,5 đến 20 mg mỗi tuần, liều trung bình là 20 mg),và phối hợp Enbrel với methotrexat bắt đầu dùng cùng lúc được so sánh trên 682 bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp tiến triển từ 6 tháng đến 20 năm (trung bình là 5 năm) là những đối tượng có đáp ứng kém hơn với ít nhất 1 thuốc điều trị cơ bản (DMARD) so với methotrexat.
Các bệnh nhân trong nhóm trị liệu kết hợp Enbrel với methotrexat có đáp ứng ACR 20, ACR 50, ACR 70 cao hơn đáng kể và các điểm số cải thiện DAS và IIAQ ở cả hai thời điểm tuần thứ 24 và tuần thứ 52 cao hơn những bệnh nhân trong hai nhóm trị liệu đơn (kết quả thể hiện ở bảng bên dưới). Ưu điểm đáng kể của trị liệu kết hợp Enbrel với methotrexat so với trị liệu đơn thuần với Enbrel hoặc methotrexat cũng thể hiện sau 24 tháng.
Tiến triển X quang ở nhóm Enbrel vào tháng thứ 12 ít hơn đáng kể so với nhóm methotrexat, trong khi sự kết hợp có hiệu quả tốt hơn dáng kể so với đơn trị liệu trong việc làm chậm diễn tiến X quang (xem số liệu bên dưới).
ưu điểm nổi bật của Enbrel trong kết hợp với methotrexat so sánh với Enbrel đơn trị và methotrexat đơn trị cũng quan sát được sau 24 tháng. Tương tự, hiệu quả nổi bật của Enbrel đơn trị so với trị liệu đơn với methotrexat cũng được nhận thấy sau 24 tháng.
Trong một phân tích mà trong đó tất cả các bệnh nhân bỏ nghiên cứu vì bất cứ lý do nào được xem như có tiến triển bệnh, phần trăm bệnh nhân không bị tiến triển bệnh (thay đổi TSS < 0,5) sau 24 tháng ớ nhóm Enbrel kết hợp với methotrexat cao hơn so với các nhóm đơn trị Enbrel và methotrexat (62%, 50% và 36% theo thứ tự; p < 0,05). Sự khác biệt giữa Enbrel đơn trị và methotrexat đơn trị cũng đáng kế (p < 0,05). Trong số những bệnh nhân đã hoàn tất 24 tháng trị liệu của nghiên cứu, tỉ lệ không tiến triển theo thứ tự là 78%, 70%, và 61%.
Độ an toàn và hiệu quả của Enbrel 50 mg (2 mũi tiêm 25 mg dưới da) tiêm một lần/tuần được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi, đối chứng với giả dược trên 420 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp. Trong nghiên cứu này, 53 bệnh nhân dùng giả dược, 214 bệnh nhân tiêm 50 mg Enbrel một lần/tuần và 153 bệnh nhân được tiêm 25 mg Enbrel hai lần/tuần. Độ an toàn và hiệu quả của hai chế độ điều trị với Enbrel được so sánh vào tuần thứ 8 dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp dạng thấp; dữ liệu vào tuần thứ 16 không cho thấy sự khác biệt giữa hai chế độ điều trị.
Nhóm đối tượng trẻ em bị viêm khớp tự phát thiếu niên
Hiệu quả và tính an toàn của Enbrel được đánh giá trong một nghiên cứu hai giai đoạn trên 69 bệnh nhi bị đợt viêm đa khớp tự phát thiểu niên có các typ khởi phát bệnh khác nhau (viêm đa khớp, viêm thiểu khớp, khởi phát toàn thân). Bệnh nhân tuổi từ 4 đến 17 bị đợt viêm đa khớp tự phát thiếu niên tiến triển ở mức độ từ vừa đến nặng, không đáp ứng hoặc không dung nạp với methotrexat được đưa vào nghiên cứu; các bệnh nhân còn lại vẫn đang được điều trị với liều ổn định của thuốc chống viêm không steroid và/ hoặc prednison (< 0,2 mg/kg/ngày hoặc tối đa 10 mg). Trong giai đoạn 1 tất cả bệnh nhân được tiêm Enbrel dưới da 0.4 mg/kg (tối đa là 25 mg mỗi liều) hai lần/tuần. Trone giai đoạn 2, các bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng vào ngày 90 được tiếp tục điều trị ngẫu nhiên hoặc với Enbrel hoặc với giả dược trong 4 tháng và được theo dõi sự tăng trở lại của bệnh. Đáp ứng được đánh giá bằng tiêu chí ACR Pedi 30, được định nghĩa là có > 30% cải thiện trong ít nhất 3 trên 6 tiêu chuẩn và > 30% xấu đi trong ít hơn 1 trên 6 tiêu chuẩn cốt lõi của JRA. bao gồm số khớp bệnh tiến triển, cử động bị hạn chế, đánh giá toàn bộ của bác sĩ và bệnh nhân/cha mẹ bệnh nhân, đánh giá về chức năng, và tốc độ máu lăng (ESR). Bệnh tăng trở lại được xác định khi > 30% xẩu đi trong 3 trên 6 điếm số JRA và > 30% cải thiện trong ít hơn 1 trên 6 tiêu chuẩn cốt lõi của JRA và có tối thiểu 2 khớp bị bệnh tiến triển.
Trong giai đoạn 1 của nghiên cứu, 51 trên 69 (74%) bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng và tiếp tục vào giai đoạn 2. Trong giai đoạn 2, 6 trên 25 (24%) bệnh nhân tiếp tục điều trị với Enbrel có bệnh tăng trở lại so với 20 trên 26 (77%) bệnh nhân được điều trị với giả dược (p=0,007). Từ khi bắt đầu giai đoạn 2, thời gian trung bỉnh đến khi bệnh tăng trở lại là > 116 ngày cho các bệnh nhân điều trị với Enbrel và 28 ngày cho các bệnh nhân điều trị với giả dược. Các chỉ tiêu của tiêu chuẩn cốt lõi JRA ở vùng cánh tay trên nhóm dùng giả dược đều xấu hơn trong khi các chỉ tiêu này đều ổn định và được cải thiện trên nhóm tiếp tục dùng Enbrel. Dữ liệu này gợi ý khả năng tỉ lệ tăng trở lại cao hơn ở những bệnh nhân với tốc độ máu lắng (ESR) ban đầu cao hơn. Trong số các bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng vào ngày 90 và tiếp tục vào giai đoạn 2 của nghiên cứu, một số bệnh nhân trong nhóm duy trì điều trị với Enbrel tiếp tục có cải thiện từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 trong khi những bệnh nhân điều trị với giả dược thì không đạt được sự cải thiện.
Trong một nghiên cứu mở về tính an toàn mở rộng, 58 bệnh nhân trẻ em từ nghiên cứu trên (từ 4 tuổi trở lên vào thời điểm tuyển chọn) tiếp tục dùng Enbrel trong tối đa 10 năm. Tỉ lệ của các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng và nhiễm khuẩn nghiêm trọng không tăng khi sử dụng lâu dài.
Trong một nghiên cứu mở đơn nhánh khác, 60 bệnh nhân bị viêm thiếu khớp kéo dài (15 bệnh nhân từ 2 đến 4 tuổi, 23 bệnh nhân từ 5 đển 11 tuổi và 22 bệnh nhân từ 12 đến 17 tuổi), 38 bệnh nhân viêm khớp thể viêm điểm bám gân (12 đến 17 tuổi) và 29 bệnh nhân viêm khớp vảy nến (12 đến 17 tuổi) được điều trị bằng Enbrel với liều 0,8 mg/kg (tối đa 50 mg mỗi liều) dùng hàng tuần trong 12 tuần. Trong mỗi loại viêm khớp tự phát thiếu niên, đa số bệnh nhân dáp ứng tiêu chí ACR Peđi 30 và cho thấy sự cải thiện về mặt lâm sàng ở các tiêu chí đánh giá phụ, chẳng hạn như so khớp mềm và đánh giá tình trạng chung của bác sĩ. Tính chất an toàn phù hợp với tính chất đã quan sát thấy trong những nghiên cứu viêm khớp tự phát thiếu niên khác.
Chưa thực hiện nghiên cứu trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên để đánh giá hiệu quả của điều trị tiếp tục với Enbrcl trên những bệnh nhân không đáp ứng trong vòng 3 tháng với khởi đầu trị liệu Enbrel. Hơn nữa, cũng chưa thực hiện nghiên cứu đánh giá tác động của việc ngừng điều trị hoặc giảm liều khuyến cáo của Enbrel sau khi dùng thuốc lâu dài trên bệnh nhân viêm khớp tự phát thiếu niên.
Tính an toàn lâu dài của trị liệu đơn trị Enbrel (n=103), Enbrel + methotrexat (n=294), hoặc trị liệu đơn trị methotrexat (n=197) được đánh giá trong 3 năm ở 594 bệnh nhi tuồi từ 2 đến 18 bị viêm khớp tự phát thiếu niên. 39 trong số đó có độ tuổi từ 2-3. Nhìn chung, nhiễm khuẩn được báo cáo phổ biển hơn trên bệnh nhân điều trị Enbrel khi so với methotrexat đơn trị (3,8 % so với 2%) và nhiễm khuẩn liên quan đến Enbrel cũng thường nặng hơn.
Bênh nhân trưởng thành bị viêm khớp vảy nến
Hiệu quả của Enbrel được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi so sánh với giả dược trên 205 bệnh nhân viêm khớp vảy nến. Độ tuổi của bệnh nhân từ 18 đến 70 và bị viêm khớp vảy nến tiến triển (> =3 sưng khớp và >=3 đau khớp) với ít nhất một trong các dạng sau: (1) liên quan đến khớp liên đốt ngoại biên (DIP); (2) viêm đa khớp (không có nốt thâp và có vảy nến hiện diện); (3) viêm khớp dẫn đến tàn phế; (4) viêm khớp vảy nên không đối xứng; hoặc (5) cứng khớp giống viêm cột sống. Các bệnh nhân cũng có mảng vảy nến với những tổn thương có đường kính > 2cm. Các bệnh nhân đã được điều trị trước đó với thuốc chống viêm không steroid (86%), DMARDs (80%), và các corticoid (24%). Các bệnh nhân được điều trị trước đó không lâu với methotrexat (ôn định > 2 tháng) có thể tiếp tục với liều ổn định <= 25 mg melhotrexat/tuần. Các liều của Enbrel 25 mg (dựa trên các nghiên cứu xác định liều ở những bệnh nhân bị viêm khớp) hay giả dược được cho tiêm dưới da 2 lần/tuần trong 6 tháng. Vào cuối nghiên cứu mù đôi, bệnh nhân có thể tham gia nghiên cứu mở kéo dài đến 2 năm.
Đáp ứng lâm sàng được thể hiện qua phần trăm bệnh nhân có đáp ứng ACR 20, 50 và 70, và phần trăm cải thiện theo tiêu chuẩn đáp ứng Viêm khớp vảy nến (PsARC). Kết quả được tóm tắt trong bảng sau.
Trong số các bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với Enbrel, các đáp ứng lâm sàng rõ rệt vào thời điểm khám đầu tiên (4 tuần) và được duy trì suốt 6 tháng điều trị. Enbrel tốt hơn đáng kể so với giả dược trong mọi chỉ số đo lường độ tiến triển của bệnh (p < 0,001), và có đáp ứng tưong tự với có hoặc không điều trị đong thời với methotrexat. Chat lượng sống của bệnh nhân viêm khớp vảy nến được đánh giá tại mọi thời điểm với chỉ số mất chức năng (disability index) của HAQ. Điểm số theo chỉ số mất chức năng của bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến được điều trị với Enbrel cải thiện rõ rệt vào mọi thời điểm so với giả dược (p < 0,001).
Các thay đổi hình ảnh X quang được đánh giả trong nghiên cứu viêm khớp vảy nến. Tiến hành chụp hình ảnh bàn tay và cổ tay ở tháng thứ 6, 12 và 24. Thay đổi TSS ở tháng 12 được thể hiện trong bằng dưới. Trong một phân tích trong đó tất cả các bệnh nhân bỏ nghiên cứu vì bất cứ lý do nào được xem như có tiến triển bệnh, phần trăm bệnh nhân không bị tiến triển bệnh (thay đổi TSS < 0,5) sau 12 tháng ở nhóm Enbrel cao hơn nhóm giả dược (73% và 47%; p < 0,001). Tác dụng của Enbrcl trên sự tiến triển trên hình ảnh X quang được duy trì ở bệnh nhân tiếp tục điều trị trong năm thứ 2. Trên bệnh nhân bị bệnh viêm đa khớp đổi xứng đã ghi nhận có sự làm chậm các tổn thương khớp ngoại biên
Điều trị bằng Enbrel cải thiện các chức năng vật lý trong giai đoạn mù đôi và lợi ích này được duy trì tiếp trong 2 năm.
Không có đủ bằng chứng về hiệu quả của Enbrel trên bệnh nhân viêm khớp do vảy nến giống như viêm cột sống dính khớp do chỉ có một số lượng nhỏ các bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện trên những bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến với liều 50 mg 1 lần/tuần. Bằng chứng hiệu quả của chế độ liều 1 lần/tuần trên mẫu bệnh nhân này dựa trên những dữ liệu của nghiên cứu trên bệnh nhân viêm cột sống dính khớp.
Bệnh nhân /trưởng thành bị viêm cột sống dính khớp
Hiệu quả của Enbrel trong viêm cột sống dính khớp được đánh giá trong 3 nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi so sánh liều 25 mg Enbrel X 2 lần/tuần với giả dược. Tống số 401 bệnh nhân được chọn, trong đó có 203 được điều trị với Enbrel. số bệnh nhân đông nhất của 3 thử nghiệm (n=277) có độ tuổi từ 18 đến 70 và bị viêm cột sống dính khớp tiến triển được xác định với điểm số trên thang điềm đánh giá bên ngoài (VAS) > 30 cho trung bình thời gian và cường độ cứng khớp vào buổi sáng cộna với điểm số VAS > 30 cho ít nhất 2 trên 3 tham so sau: đánh giá toàn thể bệnh nhân; trung bình của các giá trị VAS cho đau lưng vào ban đém và đau lưng loàn phần; trung bình của 10 câu hỏi về chì số chức năng trong viêm cột sống dính khớp của Bath (BASFI). Những bệnh nhân đang dùng DMARDs. chống viêm không steroid hoặc các corticosteroid có thể tiếp tục sử dụng với liều không đổi. Các bệnh nhân bị cứng cột sống toàn phần không được nhận vào nghiên cứu. Các liều dùng của 25 mg Enbrel (dựa trên các nghiên cứu xác định liều ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp) hoặc giả dược được tiêm dưới da 2 lần/tuần trong 6 tháng cho 138 bệnh nhân.
Xác dịnh hiệu quả chủ yếu (ASAS 20) là phải có > 20% cải thiện trong ít nhất 3 trên 4 đánh giá của những vùng viêm cột sống dính khớp (ASAS) (đánh giá toàn bộ bệnh nhân, đau lưng, BASFI và viêm) và không có sự xấu đi trong những vùng còn lại. Các đáp ứng ASAS 50 và 70 được dùng với cùng tiêu chuẩn với cải thiện 50% hoặc 70% theo thứ tự.
So sánh với giả dược, điều trị với Enbrel cho cải thiện đáng kể trong ASAS 20, ASAS 50 và ASAS 70 xuất hiện sớm vào 2 tuần sau khi bắt đầu điều trị.
Trong số các bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp được điều trị với Enbrel, các đáp ứng lâm sàng rõ vào thời điểm thăm bệnh lần đầu tiên (sau 2 tuần) và duy trì suốt 6 tháng điều trị. Các đáp ứng tương tự nhau ở những bệnh nhân được điều trị cùng lúc hay không cùng lúc ở giai đoạn ban đầu.
Các kết quả tương tự cũng thu được ở hai thử nghiệm nhỏ hơn trên viêm cột sống dính khớp.
Trong nghiên cứu thử 4, hiệu quả và độ an toàn của Enbrel 50 mg (hai mũi tiêm dưới da 25 mg liên tục) dùng 1 lần/tuần so với tiêm Enbrel 25 mg 2 Ịần/luần được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược trên 356 bệnh nhân mắc viêm cột sống dính khớp. Độ an toàn và hiệu quả của liều 50 mg một lần/tuần và 25 mg hai lần/tuần là tương đương nhau.
Bệnh nhân trưởng thành bị viêm cột sống dính khớp không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang
Tính hiệu quả của Enbrel ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp không chẩn đoán được bằng hình ảnh X-quang (non-radiographic axial sponđyloarthritis, nr-AxSpa) được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, kéo dài 12 tuần, có đối chứng bằng giả dược. Nghiên cứu đánh giá 215 bệnh nhân người lớn (phân tích theo nhóm đối tượng chọn ngẫu nhiên ban đầu có hiệu chỉnh) với nr-AxSPa thể hoạt động (18 đến 49 tuổi), được định nghĩa là những bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn phân loại ASAS của bệnh viêm cột sống dính khớp nhưng không đáp ứng tiêu chí điều chỉnh của New York cho viêm cột sống dính khớp. Bệnh nhân cũng được yêu cầu phải có đáp ứng không thỏa đáng với từ hai loại thuốc NSAID trở lên. Trong giai đoạn mù đôi, bệnh nhân dùng Enbrel 50 mg hàng tuần hoặc giả dược trong 12 tuần. Tiêu chí đánh giá chính về tính hiệu quả (ASAS40) là sự cải thiện 40% trong ít nhất 3 trên 4 vùng ASAS và không nặng thêm trong vùng còn lại. Hình chụp cộng hưởng từ của khớp nối xương cùng-xương chậu và xương sống được chụp để đánh giá tình trạng viêm ở thời điểm ban đầu và ở tuần 12. Tiếp theo giai đoạn mù đôi là một giai đoạn mở trong đó tất cả bệnh nhân dùng Enbrel 50 mg mỗi tuần được dùng thêm tối đa 92 tuần nữa.
So với giả dược, điều trị bằng Enbrel đem lại kết quả cải thiện có ý nghĩa về mặt thống kê trong ASAS 40, ASAS 20 và ASAS 5/6. Sự cải thiện có ý nghĩa cùng được quan sát thấy ở việc giảm một phần ASAS và BASDAI 50. Kết quả ở tuần 12 được trình bày trong bảng bên dưới.
ở tuần 12, có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê trong diểm SPARCC (Spondyloarthritis Research Consortium of Canada, Liên hiệp nghiên cứu về viêm cột sống dính khớp của Canada) đối với khớp nối xương cùng “xương chậu (sacroiliac joint) khi đánh giá bằng chụp cộng hưởng từ ở bệnh nhân dùng Enbrel. Giá trị trung bình có hiệu chỉnh thay đôi từ mức ban đầu là 3,8 của bệnh nhân điều trị bằng Enbrel (n=95) so với 0,8 của nhóm điều trị bằng giả dược (p<0,001).
Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe và chức năng cơ thể được đánh giá bằng chỉ số BASF1 (Bath Ankylosing Spondylitis Functional Index, chỉ số Bath đo chức năng trong bệnh viêm cột sống dính khớp), Bằng câu hỏi EuroQol 5D và SF-36. Enbrel cho thay có sự cải thiện lớn có ý nghĩa về mặt thống kê trong điểm BASFI, điểm sức khỏe tổng thể EQ5D và điểm chức năng cơ thể (Physical Component Score, PCS) SF-36 từ mức ban đầu đen tuần 12 so với giả dược.
Đáp ứng lâm sàng trong các bệnh nhân nr-AxSpa dùng Enbrel thể hiện rõ vào thời điểm của cuộc thăm khám đầu tiên (2 tuần) và được duy trì trong suốt 24 tuần trị liệu.
Bệnh nhân trưởng thành bị mảng, vảy nến
Hiệu quả và độ an toàn của Enbrel được đánh giá trong 3 nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi so sánh với giả dược. Tiêu chí đánh giá chính về tính hiệu quả trong cả 3 nghiên cứu là tỉ lệ bệnh nhân trong mỗi nhóm điều trị đạt được PASI 75 (nghĩa là có ít nhất 75% cải thiện trong chỉ số mức độ trầm trọng và vùng vảy nến so với ban đầu) sau 12 tuần.
Nghiên cứu 1 là một nghiên cứu giai đoạn 2 trên những bệnh nhân bị bệnh tiến triển những mảng vảy nến ổn định về mặt lâm sàng chiếm > 10% diện tích cơ thể và bệnh nhân > 18 tuổi. 112 bệnh nhân được cho điều trị ngẫu nhiên với Enbrel liều 25 mg (n=57) hoặc giả dược (n=55) 2 lần/tuần trong 24 tuần.
Nghiên cứu 2 đánh giá 652 bệnh nhân bị vảy nến mạn tính dùng cùng tiêu chí chọn bệnh nhân như nghiên cứu 1 cộng với có ít nhất vùng vảy nến và chi số trầm trọng (PASI) là 10 tại thời điểm sàng lọc. Enbrel được dùng với liều 25 mg 1 lần/tuần, 25 mg 2 lần/tuần hoặc 50 mg 2 lần/tuần trong 6 tháng liên tục. Trong 12 tuần đầu của giai đoạn điều trị mù đôi. bệnh nhân được điều trị với giả dược hoặc một trong 3 liều Enbrel kể trên. Sau 12 tuần điều trị. những bệnh nhân trong nhóm giả dược bắt đầu được điều trị mù với Enbrel (25 mg 2 lần/tuần); những bệnh nhân trong nhóm điều trị với Enbrel được tiếp tục đến tuần thứ 24 với liều đã được cho sử dụng từ khi chọn ngẫu nhiên.
Nghiên cứu 3 đánh giá 583 bệnh nhân và có cùng tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân như nghiên cứu 2. Các bệnh nhân trong nghiên cứu này được điều trị với liều 25 mg hoặc 50 mg, hoặc giả dược 2 lần/tuần trong 12 tuần và sau đó tất cả bệnh nhân được điều trị mở với 25 rng Enbrel 2 lần/tuần trong 24 tuần bổ sung.
Trong nghiên cứu 1, nhóm điều trị với Enbrcl có tỉ lệ bệnh nhân với đáp ứng PAS1 75 cao hon đáng kể vào tuần 12 (30%) so sánh với nhóm điều trị bằng giả dược (2%) (p<0,0001). Vào tuần 24, 56% bệnh nhân trong nhóm Enbrel đạt PASI 75 so với 5% trong nhóm giả dược. Kết quả chính của các nghiên cứu 2 và 3 được thể hiện bên dưới.
Trong số những bệnh nhân bị mảng vảy nến được điều trị với Enbrel, đáp ứng đáng kế rõ nét so với giả dược vào thời điểm thăm bệnh lần đầu (2 tuần) và được duy trì trong 24 tuần điều trị.
Nghiên cứu 2 cũng có một giai đoạn ngưng thuốc trong đó các bệnh nhân đã đạt cải thiện PASI ít nhất 50% vào tuần 24 thì ngưng điều trị. Quan sát những bệnh nhân này về hiện tượng dội ngược (PASI > 150% so với ban đầu) và thời gian trước khi xảy ra tái phát (được dịnh nghĩa như là giảm ít nhất phân nửa sự cải thiện đã đạt được trong khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến tuần thứ 24). Trong giai đoạn ngưng thuốc, các triệu chứng vảy nến dần dẩn xuất hiện trờ lại với thời gian trung bình truớc khi tái phát là 3 tháng. Không quan sát thấy hiện tượng dội ngược hoặc các tác dụng không mong muốn trầm trọng do vảy nến. Có vài bằng chứng cho thấy lợi ích của việc tái trị liệu với Enbrel ở những bệnh nhân có đáp ứng ban đầu với điều trị.
Trong nghiên cứu 3, đa số bệnh nhân (77%) được chọn ngẫu nhiên cho bắt đầu trị liệu với 50 mg 2 lần/tuần và giảm liều Enbrel vào tuần thứ 12 còn 25 mg 2 lần/tuần vẫn duy trì được đáp ứng PAS1 75 đến tuần thứ 36. Những bệnh nhân được cho dùng với liều 25 mg 2 lần/tuần trong suốt nghiên cứu, đáp ứng PAS1 75 tiếp tục cải thiện trong khoảng thời gian giữa tuần 12 và tuần 36.
Trong nghiên cứu mở kéo dài (đen 34 tháng), Enbrel được dùng liên tục, các đáp ứng lâm sàng và tính an toàn tương đương với các nghiên cứu ngắn hạn hơn
Bênh nhem nhi bị mảns vủv nến
Hiệu quả của Enbrcl được dánh giá trong nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng- giả dược trên 211 bệnh nhi từ 4 đến 17 tuổi với mức độ mảng vảy nến từ vừa đến nặng (được định nghĩa bởi điểm sMCGA > 3, liên quan đến > 10% chi số BSA. và chì số PASI > 12). Các bệnh nhân có tiền sử đã dùng quang trị liệu hoặc trị liệu toàn thân hoặc chưa được kiểm soát đầy đủ bằng trị liệu điều trị tại chỗ.
Bệnh nhân dùng Enbrel 0.8 mg/kg (tối đa là 50 mg) hoặc giả dược 1 lần/tuần trong 12 tuần. Vào tuần thứ 12, số bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên dùng Enbrel có đáp ứng về hiệu quả (ví dụ PASI 75) cao hon số bệnh nhân dùng giả dược.
Sau 12 tuần điều trị trong giai đoạn mù đôi, tất cả bệnh nhân tham gia vào giai doạn nghiên cứu mở dùng Enbrel 0.8 mg/kg (tối đa là 50 mg), 1 lần/tuần trong 24 tuần nữa. Đáp ứng được ghi nhận trong giai đoạn mở là tương tự như trong giai đoạn mù đôi.
Trong giai đoạn ngừng dùng thuốc ngẫu nhiên, số bệnh nhân dùng giả dược bị tái phát (mất đáp ứng PASI 75) cao hơn đáng kể so với số bệnh nhân dùng Enbrel. Khi tiếp tục điều trị, đáp ứng được duy trì cho đến 48 tuần.
Hiệu quả và độ an toàn khi sử dụng lâu dài Enbrel với liều 0.8 mg/kg (tối đa là 50 mg), 1 lần/tuần được đánh giá trong nghiên cứu nhãn mở gồm 181 bệnh nhi bị màng vảy nên, kéo dài thểm 2 năm sau nghiên cứu 48 tuần nói trên. Kết quả dùng Enbrel trong thời gian dài nhìn chung tương tự như nghiên cứu 48 tuần và không ghi nhận phát hiện mới nào về tính an toàn.
Cơ chế tác dụng:
Nhiều khớp bệnh trong viêm khớp dạng thấp, viêm cứng khớp đốt sống và bệnh da trong mảng vảy nến (plaque psoriasis) được hoạt hóa bởi các phân tử tiền viêm được liên kết với một hệ thống kiểm soát bởi TNF. Cơ chế tác động của etanercept được cho là ức chế cạnh tranh không cho TNF gắn kết vào các thụ thể TNF ở màng tế bào (TNFR), ngăn ngừa đáp ứng tế bào trung gian TNF bằng cách bất hoạt TNF về mặt sinh học. Etanercept có thể cũng điều chỉnh các đáp ứng sinh học được kiểm soát bởi các dòng phân tử bổ sung (ví dụ: cytokines, các phân tử kết dính, hoặc men tiêu protein) được phát sinh hay điều khiển bởi TNF.
[XEM TẠI ĐÂY]
5.2. Dược động học:
Hấp thu
Etanercept được hấp thu chậm từ vị trí tiêm dưới da, đạt đến nồng độ cực đại vào khoảng 48 giờ sau khi tiêm liều đơn. Sinh khả dụng tuyệt đối là 76%.
Phân bố
Sau khi tiêm dưới da một liều đơn 25 mg etanercept, nồng độ tối đa trung bình trong huyết thanh quan sát được ở những đối tượng tình nguyện khỏe mạnh là 1,65 ± 0,66mcg/mL, và diện tích dưới đường cong là 235 ± 96,6mcg*giờ/mL. Tỉ lệ liều chưa được tính toán một cách chính thức nhưng không có sự bão hòa rõ rệt của độ thanh thải trong phạm vi liều sử dụng.
Thể tích phân bố ở trạng thái ổn định sau khi tiêm dưới da là 13,9 ± 9,4 L.
Sau khi cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (25 bệnh nhân) dùng liên tục Enbrel với liều 25 mg, 2 lần/tuần trong ở tháng, nồng dộ trung bình được ghi nhận là 3,0 mcg/mL (biến thiên từ 1,7 đến 5,6 mcg/mL). Dựa trên các dữ liệu đã có, một số bệnh nhân có thể bị tăng nồng độ huyết thanh lên gấp 2-5 lần khi dùng liều lặp lại.
Thải trừ
Etanercept thải trừ chậm trong cơ thề. Thời gian bán thải khoảng 80 giờ.
Độ thanh thải xấp xỉ 175 ± 116 mL/giờ ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và 131 ±81 mL/giờ ở người tình nguyện khỏe mạnh.
Chất có hoạt tính phóng xạ được thải trừ qua nước tiêu sau khi dùng etanerccpt gắn chất phóng xạ trên bệnh nhân và người tình nguyện.
Suy thận hoặc suy gan
Mặc dù chất có hoạt tính phóng xạ thài trừ qua nước tiếu sau khi dùng etanercept gắn chất phóng xạ cho bệnh nhân và người tình nguyện, không quan sát thấy có sự tăng nồng độ etanercept trên bệnh nhân suy gan hoặc suy thận cấp tính. Không cần thay đổi liều trên bệnh nhân suy gan hoặc thận.
Giới tính
Không có sự khác biệt về được động học trên nữ giới và nam giới.
Mối quan hệ nồng độ – hiệu quả
Nồng dộ huyết thanh ở trạng thái ổn định từ 1-2 mg etanercept/L có mối liên quan với hiệu quả tối ưu của thuốc và đạt được với liều dùng 25 mg, 2 lần/tuần. Trong một nghiên cứu nhãn mở, đơn liều, dùng 2 trị liệu điều trị, chéo trên 28 người tình nguyện khỏe mạnh, Enbrel dùng với liều đơn 50 mg/mL, là tương đương sinh học với 2 liều tiêm đồng thời 25 mg/mL.
5.3 Giải thích:
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
5.4 Thay thế thuốc :
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
*Lưu ý:
Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuần theo theo hướng dẫn của Bác sĩ
Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com
6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:
6.1. Danh mục tá được:
Manitol, sucrose, trometamol, tromethamin, HCl, nước pha tiêm, nitrogen
6.2. Tương kỵ :
Vì chưa có nghiên cứu về lính tương kỵ, không trộn lẫn với các thuốc khác
6.3. Bảo quản:
Enbrel bột pha tiêm phải được bảo quản trong tú lạnh ở nhiệt độ 2°c – 8°c (36°F – 46°F) trước khi pha.
Không làm đông đá.
Khuyển cáo nên dùng ngay dung dịch Enbrel sau khi pha.
Nếu không dùng ngay, dung dịch Enbrcl đã pha phải được bảo quản trong ống ở nhiệt độ 2°c – 8°c (36°F – 46°F) trong tối đa 6 giờ. Phải hủy bỏ dung dịch nếu không dùng trong 6 giờ. Sau khi lấy thuốc trong tủ lạnh ra, nên để dung dịch đạt nhiệt độ phòng trước khi tiêm.
6.4. Thông tin khác :
Các dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Ung thư
Nghiên cứu dài hạn trên động vật chưa được tiến hành để đánh giá khả năng gây ung thư của etanercept. Nghiên cứu dài hạn trên động vật là không khả thi vì động vật có thể tạo kháng thể với etanercept là một protein của người.
Đột biến
Nghiên cứu về khả năng gây đột biên được tiến hành trên in vitro và in vivo, không có ghi nhận nào cho thấy về tác dụng gây đột biến của thuốc.
Suy giảm khả năng sinh sản
Nghiên cứu dài hạn trên động vật chưa được tiến hành để đánh giá tác động của etanercept trên khả năng sinh sản.
6.5 Tài liệu tham khảo:
Dược Thư Quốc Gia Việt Nam