1. Tên hoạt chất và biệt dược:
Hoạt chất : Enalapril
Phân loại: Thuốc nhóm ức chế enzym chuyển angiotensin..
Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)
Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): C09AA02.
Brand name: RENITEC.
Hàng sản xuất : Merck Sharp & Dohme
2. Dạng bào chế Hàm lượng:
Dạng thuốc và hàm lượng
Enalapril maleat:
Viên nén 5 mg, 10 mg, 20 mg.
Thuốc tham khảo:
RENITEC 5mg | ||
Mỗi viên nén có chứa: | ||
Enalapril maleat | …………………………. | 5 mg |
Tá dược | …………………………. | vừa đủ (Xem mục 6.1) |
3. Video by Pharmog:
————————————————
► Kịch Bản: PharmogTeam
► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog
► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/
► Group : Hội những người mê dược lý
► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/
► Website: pharmog.com
4. Ứng dụng lâm sàng:
4.1. Chỉ định:
Điều trị:
Mọi mức độ của tăng huyết áp vô căn
Tăng huyết áp do bệnh lý mạch máu thận
Mọi mức độ của suy tim:
Ở người bệnh suy tim có triệu chứng, Renitec được chỉ định để:
Cải thiện sự sống sót
Làm chậm tiến triển suy tim
Giảm số lần nhập viện do suy tim
Dự phòng:
Dự phòng suy tim có triệu chứng:
Ở người bệnh có rối loạn chức năng thất trái không triệu chứng, Renitec được chỉ định để:
Làm chậm sự phát triển trở thành suy tim có triệu chứng
Giảm số lần nhập viện vì suy tim
Dự phòng các sự cố thiếu máu cục bộ do mạch vành ở người bệnh rối loạn chức năng thất trái:
Renitec được chỉ định để:
Giảm tần suất nhồi máu cơ tim
Giảm số lần nhập viện vì cơn đau thắt ngực không ổn định
4.2. Liều dùng Cách dùng:
Cách dùng :
Dùng đường uống.
Vì sự hấp thụ của Renitec dạng viên nén không bị ảnh hưởng bởi thức ăn, do đó có thể uống thuốc trước, trong, hoặc sau bữa ăn.
Liều dùng:
Tăng huyết áp nguyên phát:
Liều khởi đầu là 10 tới 20 mg, tùy mức độ tăng huyết áp, và uống mỗi ngày một lần. Trong tăng huyết áp nhẹ, liều khởi đầu được khuyến cáo là 10 mg mỗi ngày. Liều khởi đầu cho tăng huyết áp ở mức độ khác là 20 mg mỗi ngày. Liều duy trì thông thường là một viên 20 mg, uống một lần mỗi ngày. Liều lượng phải được điều chỉnh theo nhu cầu của người bệnh tới liều tối đa 40 mg mỗi ngày.
Tăng huyết áp do bệnh lý mạch máu thận:
Vì huyết áp và chức năng thận ở các người bệnh này đặc biệt nhạy cảm với sự ức chế enzym chuyển dạng angiotensin, nên điều trị với liều khởi đầu thấp hơn (ví dụ 5 mg hay ít hơn). Sau đó sẽ chỉnh liều lượng theo nhu cầu của người bệnh. Phần lớn số người bệnh có thể đáp ứng với một viên 20 mg, uống một lần mỗi ngày. Nên thận trọng khi dùng thuốc cho những người bệnh tăng huyết áp đã được điều trị gần đây bằng thuốc lợi niệu (xem đoạn tiếp theo bên dưới).
Điều trị kèm với thuốc lợi niệu trong tăng huyết áp:
Tụt huyết áp có triệu chứng có thể xảy ra sau liều khởi đầu của Renitec. Điều này hay xảy ra hơn ở những người bệnh đang được điều trị bằng thuốc lợi niệu. Do đó, nên thận trọng vì những người bệnh này có thể đang thiếu muối hay giảm thể tích tuần hoàn. Phải ngừng điều trị thuốc lợi niệu 2-3 ngày trước khi khởi đầu điều trị bằng Renitec. Nếu không được, nên dùng liều Renitec khởi đầu thấp (5 mg hay ít hơn) để xác định tác dụng khởi đầu trên huyết áp. Sau đó chỉnh liều lượng theo nhu cầu của từng người bệnh.
Liều lượng trong suy thận:
Thông thường thì nên tăng khoảng cách giữa các lần uống thuốc và/hoặc giảm liều.
Tình trạng thận – Độ thanh lọc creatinin (ml/phút) – Liều đầu (mg/ngày)
Rối loạn nhẹ>30 và <80 ml/phút : 5-10 mg
Rối loạn trung bình> 10 và ≤30 ml/phút : 2,5-5 mg
Rối loạn nặng. Thông thường các người bệnh này sẽ được thẩm phân ; ≤10 ml/phút 2,5 mg trong ngày có thẩm phân
*** Xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng.
** Enalaprilat thẩm phân được. Liều lượng ở những ngày không thẩm phân phải được chỉnh theo đáp ứng của huyết áp.
Suy tim/ Rối loạn chức năng thất trái không triệu chứng lâm sàng:
Liều khởi đầu của Renitec ở người bệnh suy tim có triệu chứng hoặc rối loạn chức năng thất trái không triệu chứng là 2,5 mg và phải được thực hiện dưới sự theo dõi sát để xác định tác dụng ban đầu lên huyết áp. Renitec có thể được dùng cùng với các thuốc lợi niệu và digitalis, nếu cần, để điều trị các trường hợp suy tim có triệu chứng. Nếu không có tình trạng tụt huyết áp có triệu chứng khi khởi đầu điều trị suy tim với Renitec, hoặc sau khi tụt huyết áp đã được xử trí thích hợp, thì liều lượng phải được tăng dần tới liều duy trì thông thường là 20 mg, uống 1 lần hoặc chia 2 lần, tuỳ khả năng dung nạp của người bệnh. Việc điều chỉnh liều này có thể được tiến hành trong khoảng 2-4 tuần hoặc nhanh hơn nếu nhận thấy các triệu chứng hoặc dấu hiệu suy tim còn tồn tại. Ở các người bệnh suy tim có triệu chứng, phác đồ này có hiệu quả trong việc làm giảm tỷ lệ tử vong.
Phải theo dõi sát huyết áp và chức năng thận cả trước lẫn sau khi bắt đầu điều trị với Renitec vì tụt huyết áp và suy thận thứ phát (hiếm hơn) đã được ghi nhận. Ở người bệnh đang điều trị bằng thuốc lợi niệu, nên giảm liều nếu được trước khi bắt đầu điều trị với Renitec. Sự xuất hiện của tụt huyết áp sau liều đầu Renitec không có nghĩa là tụt huyết áp sẽ tái diễn khi điều trị lâu dài với Renitec và không phải là lý do để loại bỏ việc tiếp tục sử dụng thuốc. Kali huyết thanh cũng phải được theo dõi.
4.3. Chống chỉ định:
Chống chỉ định dùng Renitec ở người bệnh nhạy cảm với bất kỳ thành phần nào của sản phẩm và ở người bệnh có tiền sử phù mạch thần kinh với một thuốc ức chế enzym chuyển dạng angiotensin và người bệnh bị phù mạch di truyền hay tự phát.
4.4 Thận trọng:
Tụt huyết áp có triệu chứng:
Tụt huyết áp có triệu chứng rất hiếm gặp ở người bệnh tăng huyết áp không biến chứng. Ở người bệnh tăng huyết áp dùng Renitec, dễ có khuynh hướng xảy ra tụt huyết áp nếu người bệnh có giảm thể tích nội mạch, ví dụ do dùng thuốc lợi niệu, chế độ ăn hạn chế muối, thẩm phân, tiêu chảy hoặc do nôn. Đã thấy tụt huyết áp có triệu chứng ở người bệnh suy tim. Có nhiều khả năng xảy ra nhiều hơn ở các người bệnh suy tim nặng hơn, do dùng thuốc lợi niệu quai liều cao, giảm natri máu hoặc suy thận chức năng. Ở các người bệnh này, nên khởi đầu điều trị dưới sự theo dõi nội khoa và người bệnh phải được theo dõi sát mỗi lần chỉnh liều Renitec và/hoặc thuốc lợi niệu. Những lưu ý tương tự có thể áp dụng cho người bệnh có bệnh thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc bệnh lý mạch máu não, vì sự giảm huyết áp quá mức trên các người bệnh này có thể dẫn tới nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não.
Nếu có tụt huyết áp, nên để người bệnh nằm và, nếu cần, truyền tĩnh mạch dung dịch muối đẳng trương. Tụt huyết áp thoáng qua không phải là chống chỉ định cho việc tiếp tục điều trị, không có gì trở ngại cho những liều tiếp theo, một khi huyết áp đã tăng lên sau khi bù đủ dịch.
Một số người bệnh suy tim có huyết áp bình thường hoặc huyết áp thấp, khi dùng Renitec có thể làm huyết áp hạ thêm. Tác dụng này đã được biết trước và thường không phải là lý do để ngừng điều trị. Nếu tụt huyết áp có triệu chứng, có thể phải giảm liều và/ hoặc ngừng thuốc lợi niệu và/hoặc Renitec.
Hẹp động mạch chủ/ Bệnh tim phì đại:
Cũng như với mọi chất gây giãn mạch khác, cần dùng thận trọng thuốc ức chế ACE cho bệnh nhân bị tắc nghẽn đường ra của tâm thất trái.
Suy chức năng thận:
Ở một số người bệnh, tụt huyết áp sau khi khởi đầu điều trị với thuốc ức chế ACE (enzym chuyển dạng angiotensin) có thể làm suy giảm thêm chức năng thận. Suy thận cấp, thường là hồi phục được, đã được ghi nhận trong trường hợp này.
Có thể phải giảm liều và/hoặc uống Renitec thưa ra ở người bệnh suy thận. Ở một số người bệnh hẹp động mạch thận 2 bên hoặc hẹp động mạch thận của thận duy nhất, có gặp tăng urê huyết và creatinin huyết thanh nhưng thường hồi phục khi ngừng thuốc. Điều này đặc biệt dễ có khả năng xảy ra ở người bệnh suy thận.
Một số người bệnh không có biểu hiện bệnh thận từ trước cũng có tăng urê huyết và creatinin huyết thanh khi Renitec được dùng kèm lợi niệu, nhưng thường là nhẹ và thoáng qua. Có thể phải giảm liều và/hoặc ngừng lợi niệu và/hoặc Renitec.
Quá mẫn cảm/ Phù mạch thần kinh:
Phù mạch thần kinh ở mặt, tứ chi, môi, lưỡi, thanh môn và/hoặc thanh quản có gặp, nhưng hiếm, ở người bệnh điều trị bằng thuốc ức chế ACE, kể cả Renitec. Điều này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong quá trình điều trị. Khi đó, phải ngừng ngay Renitec và có biện pháp theo dõi thích hợp để bảo đảm tất cả các triệu chứng đã hết trước khi cho người bệnh xuất viện. Trong trường hợp chỉ phù ở mặt và môi, bệnh thường tự khỏi không cần điều trị gì, tuy nhiên thuốc kháng histamin đã tỏ ra hữu ích trong điều trị triệu chứng.
Phù mạch thần kinh kèm với phù thanh quản có thể gây tử vong. Khi có ảnh hưởng đến lưỡi, thanh môn hoặc thanh quản, rất có thể gây tắc đường thở, cần phải tiến hành điều trị thích hợp ngay, ví dụ như tiêm dung dịch epinephrine 1:1000 dưới da (0,3 đến 0,5mL) và/hoặc đảm bảo thông đường thở.
Người bệnh thuộc chủng tộc da đen hay gặp phù mạch do dùng các thuốc ức chế ACE hơn là các chủng tộc khác.
Với người bệnh đã có tiền sử phù mạch không liên quan tới việc điều trị bằng thuốc ức chế ACE, thì nguy cơ phù mạch khi dùng thuốc ức chế ACE là cao hơn.
Phản ứng dạng phản vệ trong quá trình giải mẫn cảm với côn trùng hymenoptera:
Có khi (hiếm) người bệnh dùng thuốc ức chế ACE trong khi đang điều trị giải mẫn cảm với nọc độc hymenoptera bị phản ứng dạng phản vệ đe dọa tính mạng. Các phản ứng này được tránh bằng cách tạm thời ngừng điều trị thuốc ức chế ACE trước mỗi lần giải mẫn cảm.
Người bệnh thẩm phân lọc máu:
Các phản ứng dạng phản vệ đã được ghi nhận ở người bệnh thẩm phân với màng lọc lưu lượng cao (ví dụ AN 69đ) và điều trị cùng lúc với một thuốc ức chế ACE. Ở những người bệnh này, nên lưu ý dùng một loại màng thẩm phân khác hoặc một nhóm thuốc giảm huyết áp khác.
Ho:
Ho đã được ghi nhận với việc sử dụng thuốc ức chế ACE. Điển hình là ho khan, kéo dài và sẽ hết khi ngừng thuốc. Ho do thuốc ức chế ACE phải được xem như là một phần trong chẩn đoán phân biệt của ho.
Phẫu thuật/ Gây mê:
Ở các người bệnh đang chịu cuộc mổ lớn hoặc trong lúc gây mê với các thuốc mê gây tụt huyết áp, enalapril ngăn chặn sự hình thành angiotensin II thứ phát do đáp ứng phóng thích bù trừ renin. Nếu tụt huyết áp xảy ra và được nghĩ là do cơ chế này, nó có thể được điều trị bằng cách làm tăng thể tích nội mạch.
Kali huyết thanh: xem Tương tác thuốc.
Sử dụng ở trẻ em:
Tính an toàn và hiệu quả của Renitec dạng viên đã được nghiên cứu trên bệnh nhi từ 1 tháng đến 16 năm tuổi bị cao huyết áp. Bằng chứng từ các nghiên cứu lâm sàng thích hợp và có đối chứng của Renitec dạng viên trên bệnh nhi và người lớn cũng như một số tài liệu y văn về bệnh nhi đã công bố, hỗ trợ cho việc sử dụng Renitec dạng viên cho nhóm đối tượng này.
Trong một nghiên cứu về dược động học sử dụng đa liều trên 40 bệnh nhi tăng huyết áp, không có trẻ sơ sinh, nói chung là Renitec dạng viên nén được dung nạp tốt. Dữ liệu về dược động học trên các bệnh nhi sau khi uống enalapril tương tự nhau và tương đương với các giá trị trước đó ở người lớn.
Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 110 bệnh nhi tăng huyết áp từ 6 đến 16 tuổi, có trọng lượng cơ thể < 50 kg được uống 0,625; 2,5 hoặc 20 mg enalapril mỗi ngày và người bệnh có trọng lượng ≥50 kg được uống 1,25; 5 hoặc 40 mg enalapril mỗi ngày. Uống enalapril mỗi ngày làm giảm huyết áp đáy phụ thuộc vào liều. Tác dụng hạ huyết áp phụ thuộc liều của enalapril là như nhau trên tất cả các phân nhóm (tuổi, giai đoạn Tanner, giới, chủng tộc). Tuy nhiên, với các liều thấp nhất được nghiên cứu 0,625 mg và 1,25 mg, tương đương với liều trung bình là 0,02 mg/kg mỗi ngày một lần, không cho hiệu quả hạ áp ổn định. Liều tối đa trong nghiên cứu là 0.58 mg/kg (đến 40 mg) mỗi ngày dùng một lần. Nói chung, Renitec dạng viên nén được dung nạp tốt trong nghiên cứu này.
Các dữ liệu về tác dụng ngoại ý không có gì khác các dữ liệu đã thấy trên người lớn.
Vì chưa có các dữ liệu, không nên dùng Renitec dạng viên nén cho trẻ sơ sinh hoặc trẻ có mức lọc cầu thận < 30 mL/phút/1,73 m2.
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.
Cần thận trọng khi sử dụng cho các đối tượng lái xe và vận hành máy móc.
4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:
Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: D
US FDA pregnancy category: D
Thời kỳ mang thai:
Renitec không được khuyến cáo sử dụng trong thai kỳ. Khi phát hiện có thai, phải ngừng Renitec càng sớm càng tốt, trừ khi nó được xem như để bảo vệ cuộc sống cho người mẹ.
Thuốc ức chế ACE có thể gây bệnh hoặc gây tử vong cho thai hoặc trẻ mới sinh khi dùng ở người mang thai vào 3 tháng giữa và cuối của thai kỳ. Việc sử dụng thuốc ức chế ACE vào giai đoạn này có liên quan với các thương tổn của thai và trẻ mới sinh bao gồm tụt huyết áp, suy thận, tăng kali huyết thanh, và/hoặc thiểu sản hộp sọ khi mới sinh. Thiếu nước ối, có lẽ là biểu hiện giảm chức năng thận của thai nhi, đã có thể làm co rút chi, biến dạng sọ-mặt và thiểu sản phổi. Nếu quyết định dùng Renitec, phải báo cho người bệnh biết nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi.
Những tác dụng bất lợi trên phôi và thai dường như không phải do tiếp xúc với thuốc ức chế ACE từ trong tử cung vào 3 tháng đầu thai kỳ.
Trong một số hiếm trường hợp, việc sử dụng thuốc ức chế ACE được nghĩ là cấp thiết, nên kiểm tra siêu âm nhiều lần để đánh giá lượng nước ối. Nếu phát hiện thiểu ối, phải ngừng Renitec, trừ khi nó được xem như là có tính chất sống còn đối với người mẹ. Dù sao người bệnh và thầy thuốc nên biết là thiếu nước ối có thể không xuất hiện, mặc dầu thai nhi đã bị các thương tổn không hồi phục.
Trẻ có mẹ đã dùng Renitec phải được theo dõi sát về tụt huyết áp, thiểu niệu và tăng kali huyết. Enalapril đã qua nhau thai, được lấy khỏi tuần hoàn trẻ mới sinh bằng thẩm phân màng bụng với một số lợi ích lâm sàng, và trên lý thuyết có thể được lấy đi bằng cách thay máu.
Thời kỳ cho con bú:
Enalapril và enalaprilat được bài tiết qua sữa mẹ ở dạng vết. Phải thận trọng nếu dùng Renitec ở phụ nữ thời kỳ cho con bú.
4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):
Renitec có tính dung nạp tốt. Trong các thử nghiệm lâm sàng, tỉ lệ toàn phần của các tác dụng ngoại ý với Renitec không lớn hơn với nhóm placebo. Trong phần lớn các trường hợp, các tác dụng ngoại ý thường là nhẹ và thoáng qua, không cần phải ngừng điều trị.
Các tác dụng ngoại ý sau đây đã gặp khi dùng Renitec dạng viên và tiêm:
Chóng mặt và nhức đầu thường được ghi nhận. Mệt và suy nhược được ghi nhận trong 2-3% người bệnh. Các tác dụng ngoại ý khác xảy ra ở ít hơn 2% người bệnh và bao gồm hạ huyết áp, hạ huyết áp thế đứng, ngất, buồn nôn, tiêu chảy, chuột rút, nổi mẩn và ho. Rối loạn chức năng thận, suy thận và thiểu niệu ít gặp hơn.
Tụt huyết áp có triệu chứng xảy ra với Renitec dạng tiêm nhiều hơn là với Renitec dạng uống.
Quá mẫn / phù mạch thần kinh
Phù mạch thần kinh ở mặt, chi, môi, lưỡi, thanh môn và/hoặc thanh quản đã được ghi nhận, nhưng hiếm gặp.
Các tác dụng ngoại ý khác rất hiếm khi xảy ra, cả trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng và sau khi thuốc được đưa ra thị trường bao gồm:
Tim mạch:
Nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não, có lẽ do tụt huyết áp quá mức ở người bệnh có nguy cơ cao.
Đau ngực, đánh trống ngực, rối loạn nhịp tim, cơn đau thắt ngực, hội chứng Raynaud.
Tiêu hóa:
Tắc ruột, viêm tụy cấp, suy gan, viêm gan hoại tử hoặc ứ mật, vàng da, đau vùng bụng, nôn, khó tiêu, táo bón, chán ăn, viêm miệng.
Hệ thần kinh/ tâm thần:
Trầm cảm, lú lẫn, buồn ngủ, mất ngủ, dễ kích động, dị cảm, chóng mặt, mơ ngủ bất thường.
Hô hấp:
Thâm nhiễm phổi, co thắt phế quản/ hen, khó thở, sổ mũi, đau họng và khàn tiếng.
Da:
Toát mồ hôi, hồng ban đa dạng, viêm da tróc vảy, hội chứng Stevens-Johnson, xơ cứng bì nhiễm độc, hoại tử biểu bì, pemphigus, ngứa, mày đay, rụng tóc.
Tác dụng khác:
Bất lực, đỏ bừng mặt, biến đổi vị giác, ù tai, viêm lưỡi, nhìn mờ.
Một phức hợp triệu chứng đã được mô tả, bao gồm sốt, viêm thanh mạc, viêm mạch, đau cơ/viêm cơ, đau khớp/viêm khớp, ANA (+), tăng ESR, tăng bạch cầu ưa eosin và tăng bạch cầu. Phát ban, nhạy cảm ánh sáng và các biểu hiện khác ở da có thể xảy ra.
Các xét nghiệm cận lâm sàng:
Các biến đổi quan trọng trên lâm sàng của các thông số xét nghiệm chuẩn hiếm khi có liên quan đến việc sử dụng Renitec. Tăng urê máu và creatinin huyết thanh, tăng các enzym gan và/hoặc bilirubin huyết thanh đã được ghi nhận. Những bất thường trên thường hồi phục khi ngừng Renitec. Đã gặp tăng kali máu và giảm natri máu.
Cũng gặp giảm hemoglobin và dung tích hồng cầu.
Kể từ khi thuốc được đưa ra thị trường, một số ít các trường hợp giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, ức chế tủy, và chứng mất bạch cầu hạt đã được ghi nhận, trong đó không thể loại trừ mối liên hệ nhân quả với việc điều trị bằng Renitec.
Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Khi bắt đầu điều trị, nên dùng thuốc với liều thấp và kiểm tra nồng độ natri huyết thanh.
Có thể xảy ra phù mạch, đặc biệt sau khi dùng liều enalapril đầu tiên, và nếu có thêm phù thanh quản có thể gây tử vong. Cần thông báo cho người bệnh về những dấu hiệu và triệu chứng của phù mạch (phù mặt, mắt, môi, lưỡi, hoặc khó thở), khi thấy có triệu chứng này phải ngừng dùng thuốc và thông báo ngay cho bác sỹ. Điều trị phù mạch ở lưỡi, thanh môn hoặc thanh quản, bao gồm các biện pháp sau:
Ngừng dùng enalapril và cho người bệnh vào viện; tiêm adrenalin dưới da; tiêm tĩnh mạch diphenhydramin hydroclorid; tiêm tĩnh mạch hydrocortison.
Định kỳ theo dõi và đếm bạch cầu ở người bệnh sử dụng enalapril, đặc biệt ở người suy thận.
Phải theo dõi huyết áp và chức năng thận chặt chẽ trước và sau khi bắt đầu điều trị.
Nếu không đạt được đáp ứng điều trị đủ trong vòng 4 tuần, nên tăng liều dùng hoặc điều trị thêm bằng những thuốc chống tăng huyết áp khác.
Khi có hạ huyết áp nặng cần truyền tĩnh mạch natri clorid 0,9%. Enalapril thường không ảnh hưởng đến nồng độ kali huyết thanh. Nếu dùng enalapril cùng với thuốc lợi niệu có thể giảm nguy cơ giải phóng aldosteron thứ phát cùng với hạ kali máu. Ớ người suy thận, enalapril có thể gây tăng nồng độ kali huyết thanh. Bởi vậy, không khuyến cáo dùng thuốc lợi niệu giữ kali và thuốc bố sung kali cho người bệnh giảm chức năng thận vì có thể làm tăng kali máu. Nếu vẫn cần phải điều trị đồng thời với thuốc lợi niệu, phải hết sức thận trọng và thường xuyên đo kali huyết. Cần phải đo creatinin huyết trước khi bắt đầu điều trị thuốc cho người bệnh có nghi ngờ hẹp động mạch thận.
Trong phẫu thuật lớn hoặc trong khi gây mê bằng thuốc có tác dụng hạ huyết áp, enalapril có thể ngăn cản tạo angiotensin II, sau khi có giải phóng renin bù trừ dẫn đến hạ huyết áp kịch phát, cần được điều chỉnh bằng tăng thể tích tuần hoàn
4.8 Tương tác với các thuốc khác:
Thuốc hạ huyết áp:
Có thể có tác dụng hiệp đồng khi phối hợp Renitec với thuốc hạ huyết áp khác.
Kali huyết thanh:
Trong các thử nghiệm lâm sàng, kali huyết thanh thường vẫn ở trong giới hạn bình thường. Ở người bệnh tăng huyết áp điều trị đơn thuần với Renitec cho tới 48 tuần, có gặp kali máu tăng trung bình khoảng 0,2 mEq/L. Ở người bệnh dùng Renitec và thuốc lợi niệu thiazid, tác dụng làm mất kali của thiazid thường giảm bớt dưới tác dụng của enalapril.
Nếu dùng Renitec chung với thuốc lợi niệu loại thải kali, có thể cải thiện được tình trạng giảm kali máu do ảnh hưởng của thuốc lợi niệu này.
Các yếu tố nguy cơ để làm tăng kali máu bao gồm suy thận, tiểu đường và sử dụng đồng thời với thuốc lợi niệu giữ kali (ví dụ spironolacton, triamteren hoặc amilorid), các chất bồi phụ kali hoặc chất thế muối có chứa kali.
Việc dùng các chất bồi phụ kali, thuốc lợi niệu giữ kali hoặc các chất thế muối có chứa kali, nhất là ở người bệnh suy thận, có thể dẫn tới tăng kali huyết thanh rõ ràng.
Nếu việc dùng đồng thời với các tác nhân trên được cho là thích hợp, các tác nhân này phải được sử dụng một cách thận trọng và phải theo dõi kali huyết thanh thường xuyên.
Lithium huyết thanh:
Cũng như với các loại thuốc làm mất natri khác, độ thanh lọc lithi có thể giảm sau khi dùng Renitec. Do đó, phải theo dõi lithi huyết thanh cẩn thận, nếu dùng muối lithi phối hợp với Renitec.
Thuốc chống viêm không steroid:
Khi dùng các chất ức chế ACE cho người bệnh suy thận còn bù, lại đang sử dụng các chất chống viêm không-steroid có thể làm chức năng thận trở nên xấu hơn. Hậu quả này là không hồi phục được.
4.9 Quá liều và xử trí:
Các dữ liệu về quá liều ở người còn hạn chế. Cho tới nay, triệu chứng nổi bật nhất được ghi nhận của tình trạng quá liều là tụt huyết áp nặng, khởi phát khoảng sáu giờ sau khi uống thuốc, cùng lúc với việc phong bế hệ renin-angiotensin, và trạng thái sững sờ. Sau khi uống 300 và 440mg enalapril, nồng độ enalaprilat trong huyết thanh cao hơn gấp 100 đến 200 lần so với liều điều trị.
Điều trị được khuyến cáo trong tình trạng quá liều là truyền tĩnh mạch dung dịch muối sinh lý. Nếu có thể, thì truyền angiotensin II cũng có hiệu quả. Nếu mới uống, nên gây nôn. Có thể lấy enalaprilat ra khỏi cơ thể bằng thẩm phân lọc máu.
5. Cơ chế tác dụng của thuốc :
5.1. Dược lực học:
Renitec là muối maleat của enalapril, là dẫn chất của hai acid amin, L-alanine và L-proline. Sau khi uống, enalapril được hấp thu nhanh và thủy phân thành enalaprilat, một chất ức chế enzym chuyển dạng angiotensin không chứa sulphydryl rất đặc hiệu và có thời gian tác dụng kéo dài.
Renitec được chỉ định trong điều trị tăng huyết áp vô căn ở mọi mức độ, và trong tăng huyết áp do bệnh lý mạch máu thận. Thuốc này có thể được dùng đơn độc để khởi đầu hoặc dùng chung với các thuốc giảm áp khác, đặc biệt là thuốc lợi niệu.
Renitec cũng được chỉ định trong điều trị và dự phòng suy tim.
Một nghiên cứu mù kép, đa trung tâm, có đối chứng placebo về rối loạn chức năng thất trái (SOLVD) đánh giá tác dụng của Renitec trên 6.797 người bệnh, trong đó 2.569 người bệnh với mọi mức độ suy tim có triệu chứng (chủ yếu từ nhẹ tới vừa, độ II và III của Hiệp Hội Tim New York NYHA) được phân bố ngẫu nhiên vào trong nhánh điều trị, và 4.228 người bệnh rối loạn chức năng thất trái không triệu chứng được phân bố ngẫu nhiên vào trong nhánh dự phòng. Các kết quả phối hợp cho thấy có giảm toàn bộ nguy cơ phát triển của các sự cố thiếu máu cục bộ nặng. Renitec làm giảm tần suất nhồi máu cơ tim và giảm số lần nhập viện do cơn đau thắt ngực không ổn định ở người bệnh rối loạn chức năng thất trái.
Thêm vào đó, trong nhánh dự phòng, Renitec dự phòng có hiệu quả sự phát triển trở thành suy tim có triệu chứng. Trong nhánh điều trị, Renitec, như một hỗ trợ cho điều trị thông thường, làm giảm tỉ lệ tử vong, số lần nhập viện do suy tim và cải thiện độ chức năng theo NYHA một cách có ý nghĩa.
Trong một nghiên cứu tương tự bao gồm 253 người bệnh suy tim nặng (NYHA độ IV), Renitec đã được chứng minh là có cải thiện rõ rệt triệu chứng và giảm tử vong.
Đặc tính bảo vệ tim của Renitec đã được chỉ ra trong các nghiên cứu này thông qua các lợi ích trên sự sống sót và việc làm chậm lại tiến trình suy tim trên các người bệnh suy tim có biểu hiện lâm sàng; làm chậm lại quá trình phát triển từ các rối loạn chức năng thất trái chưa có biểu hiện lâm sàng thành suy tim có triệu chứng; và phòng ngừa các biến cố thiếu máu cục bộ mạch vành ở người bệnh rối loạn chức năng thất trái, đặc biệt giảm được tần suất nhồi máu cơ tim và giảm được số lần nhập viện do cơn đau thắt ngực không ổn định.
Cơ chế tác dụng:
Enalapril là một thuốc ức chế enzym chuyển angiotensin, có tác dụng nhờ enalaprilat là chất chuyển hóa của enalapril sau khi uống. Enalapril làm giảm huyết áp ở người huyết áp bình thường, người tăng huyết áp, và có tác dụng tốt đến huyết động ở người suy tim sung huyết, chủ yếu do ức chế hệ renin angiotensin aldosteron.
Enalapril ngăn cản angiotensin I chuyển thành angiotensin II (chất gây co mạch mạnh) nhờ ức chế enzym chuyển angiotensin (ACE). Ức chế ACE lúc đầu làm giảm nồng độ angiotensin II trong huyết tương và hậu quả là huyết áp cơ thể bị giảm một phần do giảm co mạch. Sự giảm angiotensin II này làm hoạt tính renin trong huyết tương (PRA = plasma renin activity) tăng và làm giảm tiết aldosteron. Tác dụng giảm huyết áp ban đầu của enalapril tỏ ra tỷ lệ với ức chế ACE trong máu, nhưng tác dụng giảm huyết áp của thuốc kéo dài hơn so với giảm nồng độ angiotensin II. Có ý kiến cho rằng tác dụng giảm huyết áp của thuốc ức chế ACE cũng có thể một phần do tác dụng tại chỗ (như ở thành mạch máu). Bằng cách làm giảm sản xuất angiotensin II tại chỗ, thuốc ức chế ACE có thể làm giảm trương lực của thành mạch bằng cách làm giảm co mạch trực tiếp do angiotensin II và/hoặc làm tăng hoạt tính hệ thần kinh giao cảm do angiotensin II. Trong khi dùng lâu dài enalapril, nồng độ angiotensin II trong huyết tương có thể trở lại mức trước khi điều trị, và ức chế hệ thống renin-angiotensin ở các mô (như ở thành mạch, thận) hơn là ở máu có thể là những yếu tố quyết định quan trọng hơn nhiều đối với tác dụng giảm huyết áp của thuốc, đặc biệt khi dùng lâu dài.
5.2. Dược động học:
Sau khi dùng đường uống, khoảng 60% liều dùng enalapril được hấp thu tại đường tiêu hóa và nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng 0.5 – 1.5 giờ. Enalapril được thủy phân nhiều ở gan thành enalaprilat; nồng độ đỉnh của enalaprilat trong huyết tương đạt được sau 3 đến 4 giờ uống 1 liều enalapril. Mức gắn kết protein huyết tương của enalaprilat 50 – 60%. Enalapril được bài tiết qua nước tiểu và qua phân, dưới dạng enalaprilat và dạng không đổi, phần lớn là qua đường niệu. Sự đào thải của enalaprilat gồm nhiều giai đoạn nhưng thời gian bán thải hiệu quả để tích lũy sau khi dùng nhiều liều enalapril là khoảng 11 giờ ở những bệnh nhân có chức năng thận bình thường.
5.3 Giải thích:
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
5.4 Thay thế thuốc :
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
*Lưu ý:
Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ
Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com
6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:
6.1. Danh mục tá dược:
…
6.2. Tương kỵ :
Không áp dụng.
6.3. Bảo quản:
Bảo quản enalapril trong những bao bì kín, ở nơi khô và nhiệt độ dưới 30 oC. Tránh ấm.
6.4. Thông tin khác :
Không có.
6.5 Tài liệu tham khảo:
Dược Thư Quốc Gia Việt Nam