Fulvestrant – Faslodex

1. Tên hoạt chất và biệt dược:

Hoạt chất : Fulvestrant

Phân loại: Thuốc chống ung thư.

Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)

Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): L02BA03.

Brand name: FASLODEX.

Hãng sản xuất : AstraZeneca

2. Dạng bào chế – Hàm lượng:

Dạng thuốc và hàm lượng

Dung dịch tiêm định liều Mỗi 5mL: Fulvestrant 250mg.

Thuốc tham khảo:

FASLODEX 250 mg
Mỗi liều 5ml dung dịch tiêm có chứa:
Fulvestrant …………………………. 250 mg
Tá dược …………………………. vừa đủ (Xem mục 6.1)

3. Video by Pharmog:

[VIDEO DƯỢC LÝ]

————————————————

► Kịch Bản: PharmogTeam

► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog

► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/

► Group : Hội những người mê dược lý

► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/

► Website: pharmog.com

4. Ứng dụng lâm sàng:

4.1. Chỉ định:

Faslodex được chỉ định điều trị cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến xa tại chỗ hoặc di căn có thụ thể estrogen dương tính:

mà trước đây chưa từng dùng liệu pháp nội tiết, hoặc

tái phát trong hoặc sau điều trị kháng estrogen bổ trợ, hoặc tiến triển khi đang điều trị kháng estrogen.

4.2. Liều dùng – Cách dùng:

Cách dùng :

Faslodex được chỉ định với 2 mũi tiêm 5 mL liên tục, tiêm bắp chậm (1-2 phút/lần tiêm), 1 mũi tiêm ở mỗi mông (cơ mông).

Nên thận trọng khi tiêm Faslodex vào vùng sau của mông (dorsogluteal site) do vùng này gần với dây thần kinh tọa phía dưới.

Hướng dẫn sử dụng thuốc

Cảnh báo – không được hấp tiệt trùng kim tiêm an toàn (kim tiêm dưới da BD SafetyGlide Shielding) trước khi dùng. Phải luôn luôn để tay phía sau kim tiêm trong khi tiêm và vứt bỏ.

Liều dùng:

Người lớn (kể cả người cao tuổi): Liều khuyến cáo là 500 mg/lần/tháng, bổ sung thêm 500 mg sau 2 tuần điều trị với liều khởi đầu.

Đối tượng đặc biệt:

Suy thận: Không cần chỉnh liều cho bệnh nhân suy thận nhẹ và vừa (độ thanh thải creatinin ≥ 30mL/phút). An toàn và hiệu quả chưa được đánh giá ở bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin < 30mL/phút), do đó cần thận trọng đối với các bệnh nhân này (xem mục Thận trọng lúc dùng).

Suy gan: Không cần chỉnh liều cho bệnh nhân suy gan nhẹ và vừa. Tuy nhiên, vì nồng độ và thời gian tiếp xúc fulvestrant có thể tăng, nên dùng Faslodex thận trọng cho những bệnh nhân này. Chưa có dữ liệu báo cáo đối với bệnh nhân suy gan nặng (xem mục Chống chỉ định, Thận trọng lúc dùng và Dược động học).

Trẻ em: An toàn và hiệu quả của Faslodex ở trẻ em từ sơ sinh đến 18 tuổi chưa được xác định. Dữ liệu hiện có được trình bày ở mục Dược lực học và Dược động học nhưng không khuyến cáo liều dùng.

4.3. Chống chỉ định:

Quá mẫn cảm với hoạt chất hoặc bất cứ tá dược nào khác.

Phụ nữ có thai và cho con bú (xem mục Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú).

Suy gan nặng

4.4 Thận trọng:

Thận trọng khi dùng Faslodex ở những bệnh nhân suy gan nhẹ đến trung bình (xem mục Liều lượng và Cách dùng, Chống chỉ định, và Dược động học).

Thận trọng khi dùng Faslodex ở những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin < 30mL/phút).

Do dùng qua đường tiêm bắp, thận trọng khi dùng Faslodex cho bệnh nhân có cơ địa dễ chảy máu, giảm tiểu cầu hoặc đang điều trị các thuốc chống đông.

Nghẽn mạch do huyết khối thường được ghi nhận trên phụ nữ ung thư vú tiến xa và cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu lâm sàng với Faslodex (xem mục Tác dụng ngoại ý). Điều này nên được cân nhắc khi chỉ định Faslodex cho các bệnh nhân có nguy cơ.

Phản ứng tại chỗ tiêm bao gồm đau thần kinh tọa, đau dây thần kinh, đau do căn nguyên thần kinh, và đau dây thần kinh ngoại vi đã được ghi nhận khi tiêm Faslodex. Nên thận trọng khi tiêm Faslodex vào vùng sau của mông (dorsogluteal site) do vùng tiêm gần với dây thần kinh tọa phía dưới (xem phần Liều lượng và cách dùng và phần Tác dụng ngoại ý).

Chưa có dữ liệu nghiên cứu dài hạn về tác động của fulvestrant trên xương. Do cơ chế tác động của fulvestrant, có nguy cơ gây loãng xương khi dùng.

Khả năng tương tác với xét nghiệm kháng thể estradiol: Do fulvestrant và estradiol có cấu trúc tương tự, fulvestrant có thể ảnh hưởng đến xét nghiệm kháng thể dựa trên estradiol và có thể làm tăng mức estradiol giả tạo.

Trẻ em: Faslodex không khuyến cáo dùng cho trẻ em và trẻ vị thành niên vì tính an toàn và hiệu quả chưa được xác định ở nhóm bệnh nhân này (xem mục Dược lực học).

Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.

Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc: Faslodex không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể lên khả năng lái xe hoặc vận hành máy móc. Tuy nhiên, vì suy nhược thường được ghi nhận khi dùng Faslodex, những bệnh nhân bị tác dụng ngoại ý này nên thận trọng khi lái xe hoặc vận hành máy móc.

4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:

Xếp hạng cảnh báo

AU TGA pregnancy category: D

US FDA pregnancy category: NA

Phụ nữ có khả năng mang thai:

Những bệnh nhân có khả năng mang thai nên dùng các biện pháp tránh thai hiệu quả trong khi điều trị.

Phụ nữ có thai:

Faslodex chống chỉ định dùng cho phụ nữ có thai (xem mục Chống chỉ định). Nghiên cứu trên chuột và thỏ cho thấy Fulvestrant qua được nhau thai sau khi tiêm bắp đơn liều. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy có độc tính trên khả năng sinh sản bao gồm tăng tần suất bất thường thai nhi và tử vong. Nếu có thai trong khi đang dùng Faslodex, bệnh nhân nên được thông báo về khả năng gây nguy hiểm cho thai nhi và nguy cơ sẩy thai.

Phụ nữ cho con bú:

Phải ngưng cho con bú khi điều trị với Faslodex. Fulvestrant được bài tiết vào sữa ở chuột đang cho con bú. Chưa rõ liệu fulvestrant có bài tiết vào sữa mẹ hay không.

Chống chỉ định sử dụng thuốc trong thời gian cho con bú do nguy cơ gây các tác dụng ngoại ý nghiêm trọng do fulvestrant trên trẻ nhỏ bú sữa mẹ (xem mục Chống chỉ định).

Khả năng sinh sản:

Tác động của Faslodex lên khả năng sinh sản ở người chưa được nghiên cứu.

4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):

Các phản ứng ngoại ý thường được ghi nhận nhất là phản ứng tại chỗ tiêm, suy nhược, buồn nôn và tăng men gan (ALT, AST, ALP).

Đau khớp và đau cơ xương: Trong nghiên cứu FALCON, số bệnh nhân ghi nhận phản ứng ngoại ý đau khớp và cơ xương là 65 (31,2%) ở nhánh dùng fulvestrant và 48 (24,1%) ở nhánh dùng anastrozole. Trong số 65 bệnh nhân dùng Fulvestrant, 40% (26/65) bệnh nhân có báo cáo đau khớp và cơ xương khớp trong tháng đầu điều trị và 66,2% (43/65) bệnh nhân trong 3 tháng đầu điều trị. Không có bệnh nhân nào báo cáo phản ứng ngoại ý ở mức độ CTCAE ≥ 3 hoặc cần giảm liều, ngưng thuốc hoặc ngưng điều trị do các phản ứng ngoại ý này.

Nhiễm trùng và kỷ sinh trùng Thường gặp Nhiễm trùng đường tiểu
Máu và hệ bạch huyết Thường gặp Giảm tiểu cầu
Rối loạn hệ miễn dịch Rất thường gặp Phản ứng quá măne
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng Thường gặp [1]Chán ăn (a)
Rối loạn hệ thần kinh Thường gặp Nhức đầu
Rối loạn mạch máu Rất thường gặp Đỏ bừng mặte
Thường gặp Thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khốia
Rối loạn tiêu hóa Rất thường gặp Buồn nõn
Thường gặp Nôn, tiêu chảy
Rối loạn gan mật Rất thường gặp Tăng men gan (ALT, AST, ALP)a
Thường gặp Tăng bilirubin3
ít gặp Suy ganc, viêm gan, tăng gamma-GT1.
Rối loạn da và mõ dưới da Rất thường gặp Nổi mẩna
Rối loạn cơ xương và mõ liên kết Rất thường gặp Đau khớp và đau cơ xương”
Thường gặp Đau lưnga
Rối loạn hệ sinh sản và tuyến vú Thường gặp Xuất huyết âm đạoa
ít gặp Candida âm đạo’, huyết trắng’
Rối loạn toàn thân và tại vị trí dùng thuốc Rất thường gặp Suy nhược3, phản ứng tại vị tri tiẽmb
Thường gặp Đau dây thần kinh ngoại vi, đau thần kinh tọae
ít gặp Chảy máu tạl vị trí tiêm’, tụ máu tạl vị trí tiêm1, đau dây thần kinh”-‘

a Bao gồm các phản ứng ngoại ỷ của thuốc mà không thể đánh giá chính xác do Fulvestrant hay có thể do bệnh tiềm ẩn.

b Phản ứng tại vị trí tiêm không bao gồm chảy máu, tụ máu tại vị trí tiêm, đau thần kinh tọa, đau dây thần kinh và đau dây thần kinh ngoại vi.

c Biến cố không được ghi nhận trong các nghiên cứu lâm sàng chinh (CONFIRM, FINDER 1, FINDER 2, NEWEST). Tần suất xảy ra được ước tinh bằng giới hạn trẽn của khoảng tin cậy 95%, là 3/560 (trong đó 560 là số bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng chính), tương ứng phân loại tần suất “ít gặp”.

d Bao gồm: đau khớp và đau cơ xương với tần suất ít hơn, đau cơ và đau ở chi.

e Tần xuất khác biệt giữa dữ liệu phân tích gộp về độ an toàn và trong nghiên cứu FALCON.

f Phản ứng ngoại ý không được ghi nhận trong nghiên cứu FALCON.

Mô tả một số phản ứng ngoại ý chọn lọc

Các mô tả dưới đây được dựa trên bộ phân tích về tính an toàn của 228 bệnh nhân đã dùng ít nhất một (1) liều fulvestrant và 232 bệnh nhân đã dùng ít nhất một (1) liều anastrozole trong nghiên cứu pha 3 FALCON.

Đau khớp và đau cơ xương: Trong nghiên cứu FALCON, số bệnh nhân ghi nhận phản ứng ngoại ý đau khớp và cơ xương là 65 (31,2%) ở nhánh dùng fulvestrant và 48 (24,1%) ở nhánh dùng anastrozole. Trong số 65 bệnh nhân dùng Faslodex, 40% (26/65) bệnh nhân có báo cáo đau khớp và cơ xương khớp trong tháng đầu điều trị và 66,2% (43/65) bệnh nhân trong 3 tháng đầu điều trị. Không có bệnh nhân nào báo cáo phản ứng ngoại ý ở mức độ CTCAE ≥ 3 hoặc cần giảm liều, ngưng thuốc hoặc ngưng điều trị do các phản ứng ngoại ý này.

Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:

Ngừng sử dụng thuốc. Với các phản ứng bất lợi nhẹ, thường chỉ cần ngừng thuốc. Trường hợp mẫn cảm nặng hoặc phản ứng dị ứng, cần tiến hành điều trị hỗ trợ (giữ thoáng khí và dùng epinephrin, thở oxygen, dùng kháng histamin, corticoid…).

4.8 Tương tác với các thuốc khác:

Một nghiên cứu lâm sàng về tương tác với midazolam (chất nền của CYP3A4) cho thấy fulvestrant không ức chế CYP3A4. Các nghiên cứu lâm sàng tương tác với rifampicin (chất cảm ứng CYP3A4) và ketoconazole (chất ức chế CYP3A4) cho thấy không có các thay đổi trên lâm sàng liên quan đến độ thanh thải fulvestrant. Do đó, không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân dùng fulvestrant đồng thời với các thuốc ức chế hay cảm ứng CYP3A4.

4.9 Quá liều và xử trí:

Có một vài ghi nhận đơn lẻ về quá liều Faslodex ở người. Nếu dùng quá liều, khuyến cáo dùng các biện pháp điều trị triệu chứng hỗ trợ. Nghiên cứu trên động vật chưa chứng tỏ tác động nào khác ngoài các tác động liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt tính kháng estrogen với liều cao fulvestrant.

5. Cơ chế tác dụng của thuốc :

5.1. Dược lực học:

An toàn và hiệu quả lâm sàng ở ung thư vú tiến triển

Một nghiên cứu lâm sàng pha 3 đã được tiến hành trên 736 bệnh nhân mãn kinh bị ung thư vú tiến xa tái phát trong hoặc sau điều trị nội tiết hỗ trợ hoặc tiến triển sau khi điều trị nội tiết cho ung thư tiến xa. Nghiên cứu gồm 423 bệnh nhân tái phát hoặc tiến triển trong khi điều trị bằng liệu pháp kháng estrogen (phân nhóm AE) và 313 bệnh nhân tái phát hoặc tiến triển trong khi điều trị bằng chất ức chế aromatase (phân nhóm AI). Nghiên cứu này so sánh hiệu quả và an toàn của Faslodex 500mg (n = 362) với Faslodex 250mg (n = 374). Tiêu chí kết cuộc chính là thời gian sống còn không bệnh tiến triển (PFS). Tiêu chí phụ chủ yếu về hiệu quả bao gồm tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR), tỷ lệ cải thiện lợi ích lâm sàng (CBR) và thời gian sống còn toàn bộ (OS). Kết quả của nghiên cứu CONFIRM về hiệu quả của thuốc được tóm tắt trong bảng 1.

Image from Drug Label Content

– xem Bảng 1.

Một nghiên cứu pha 3, ngẫu nhiên, mù đôi, giả dược đôi, đa trung tâm dùng thuốc Faslodex 500mg so sánh với anastrozole 1 mg đã được tiến hành trên phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến xa tại chỗ hoặc di căn có thụ thể ER dương tính và/ hoặc PgR dương tính mà trước đây chưa từng điều trị với bất kỳ liệu pháp nội tiết nào. Tổng cộng có 462 bệnh nhân được phân ngẫu nhiên tuần tự theo tỷ lệ 1:1 dùng fulvestrant 500 mg hoặc anastrozole 1 mg.

Việc phân bố được phân ngẫu nhiên theo bối cảnh bệnh (tiến xa tại chỗ hoặc di căn), có dùng hóa trị trước đó vì bệnh tiến xa, và tình trạng bệnh lý có thể đánh giá được.

Tiêu chí hiệu quả chính của nghiên cứu là thời gian sống không bệnh tiến triển (PFS) do nghiên cứu viên đánh giá theo tiêu chuẩn đánh giá trên bướu đặc (RECIST 1.1). Các tiêu chí hiệu quả phụ tiêu biểu gồm thời gian sống còn toàn bộ (OS), và tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR).

Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu này có độ tuổi trung bình là 63 tuổi (trong khoảng 36-90). Phần lớn bệnh nhân (87,0%) có bệnh di căn ở thời điểm bắt đầu. Năm mươi lăm phần trăm (55,0%) bệnh nhân có di căn tạng ở thời điểm bắt đầu. Tổng cộng 17,1% bệnh nhân trước đó đã dùng một phác đồ hóa trị khi bệnh tiến xa; có 84,2% bệnh nhân có thể đánh giá tình trạng bệnh.

Các kết quả nhất quán được ghi nhận ở đa số các phân nhóm bệnh nhân được xác định trước. Đối với phân nhóm của bệnh nhân không phải di căn tạng (n = 208), HR là 0,592 (độ tin cậy 95% CI: 0.419, 0.837) đối với nhánh Faslodex so với nhánh anastrozole. Đối với nhóm bệnh nhân di căn tạng (n = 254), HR là 0,993 (độ tin cậy 95% CI: 0,740, 1,331) đối với nhánh Faslodex so với nhánh anastrozole. Kết quả hiệu quả của nghiên cứu FALCON được trình bày trong bảng 2 và hình 1.

– xem Bảng 2 & Hình 1.

Image from Drug Label Content

Image from Drug Label Content

Hai nghiên cứu lâm sàng pha 3 đã được hoàn tất trên 851 phụ nữ mãn kinh bị ung thư vú tiến xa tái phát trong hoặc sau điều trị nội tiết hỗ trợ hoặc tiến triển sau khi điều trị nội tiết cho ung thư tiến xa. Bảy mươi bảy phần trăm (77%) bệnh nhân ung thư vú trong nghiên cứu có thụ thể estrogen dương tính. Các nghiên cứu này so sánh tính an toàn và hiệu quả của trị liệu Faslodex 250mg mỗi tháng so với liệu pháp dùng anastrozole (chất ức chế aromatase) 1 mg/ngày. Nhìn chung, Faslodex ở liều 250 mg/tháng hiệu quả ít nhất là tương đương với anastrozole về thời gian sống còn không bệnh tiến triển, đáp ứng khách quan và thời gian đến khi tử vong. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các tiêu chí nghiên cứu giữa 2 nhóm điều trị. Tiêu chí chính là thời gian sống không bệnh tiến triển. Phân tích gộp hai nghiên cứu cho thấy 83% bệnh nhân đang điều trị Faslodex có bệnh tiến triển so với 85% bệnh nhân dùng anastrozole. Phân tích gộp cả hai nghiên cứu cho thấy tỷ số nguy cơ về thời gian sống không bệnh tiến triển của Faslodex 250mg so với anastrozole là 0,95 (95% CI 0,82-1,10). Tỷ lệ đáp ứng khách quan của nhóm Faslodex 250mg là 19,2% so với 16,5% ở nhóm anastrozole. Trung vị thời gian đến khi tử vong ở những bệnh nhân điều trị Faslodex là 27,4 tháng so với 27,6 tháng ở nhóm điều trị anastrozole. Tỷ số nguy cơ về thời gian đến khi tử vong ở nhóm Faslodex 250mg so với anastrozole là 1,01 (95% CI 0,86-1,19).

Ảnh hưởng trên nội mạc tử cung sau mãn kinh

Dữ liệu tiền lâm sàng không cho thấy tác dụng kích ứng của fulvestrant trên nội mạc tử cung sau mãn kinh. Một nghiên cứu 2 tuần ở phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh tình nguyện điều trị với ethinylestradiol 20 mcg/ngày cho thấy điều trị trước với Faslodex 250mg cho kết quả giảm đáng kể sự kích ứng nội mạc tử cung sau mãn kinh so với điều trị trước với giả dược, khi được đánh giá bằng kỹ thuật siêu âm đo độ dày nội mạc tử cung.

Điều trị tân bổ trợ cho bệnh nhân ung thư vú ≤ 16 tuần với Faslodex 500mg hay Faslodex 250mg không làm thay đổi lâm sàng đáng kể trên độ dày nội mạc tử cung, cho thấy thuốc không có tác động chủ vận. Chưa có bằng chứng về tác dụng ngoại ý trên nội mạc tử cung ở bệnh nhân ung thư vú được nghiên cứu. Chưa có dữ liệu về hình thái học nội mạc tử cung.

Trong 2 nghiên cứu ngắn hạn (1 và 12 tuần) trên bệnh nhân mãn kinh bị bệnh phụ khoa lành tính, siêu âm không thấy có sự khác biệt đáng kể về độ dày nội mạc tử cung giữa nhóm dùng fulvestrant và giả dược.

Ảnh hưởng trên xương

Không có dữ liệu nghiên cứu dài hạn về ảnh hưởng của fulvestrant trên xương. Điều trị tân bổ trợ cho bệnh nhân bị ung thư vú ≤ 16 tuần với Faslodex 500mg hay Faslodex 250mg không cho kết quả làm thay đổi lâm sàng đáng kể về nồng độ chất đánh dấu chu chuyển xương trong huyết thanh.

Trẻ em

Faslodex không được chỉ định cho trẻ em.

Một nghiên cứu pha 2, nhãn mở, đánh giá tính an toàn, hiệu quả và dược động học của fulvestrant ở 30 bé gái từ 1-8 tuổi bị dậy thì sớm tiến triển (Progressive Precocious Puberty) có liên quan tới hội chứng McCune Albright (MAS). Các bệnh nhi này được dùng fulvestrant tiêm bắp với liều 4 mg/kg hàng tháng. Nghiên cứu 12 tháng này đã đánh giá một nhóm tiêu chí về MAS và cho thấy có sự giảm tần suất chảy máu âm đạo và giảm tỷ lệ trưởng thành xương sớm. Nồng độ đáy ở giai đoạn ổn định (steady-state trough concentration) của fulvestrant ở trẻ em trong nghiên cứu này tương thích với nồng độ này ở người lớn (xem mục Dược động học). Chưa có những quan ngại mới về tính an toàn phát sinh từ nghiên cứu mức độ nhỏ này, mặc dù hiện chưa có đủ dữ liệu 5 năm.

Cơ chế tác dụng:

Fulvestrant là chất đối vận cạnh tranh với thụ thể estrogen (ER), có ái lực tương đương với estradiol. Fulvestrant ngăn chặn hoạt động sinh dưỡng của estrogen mà không có tác động đồng vận một phần (tương tự estrogen). Cơ chế tác động có liên quan với việc điều hòa giảm nồng độ ER-protein. Các nghiên cứu lâm sàng ở phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiên phát cho thấy fulvestrant làm điều hòa giảm đáng kể ER-protein trong các khối u có thụ thể estrogen dương tính so với giả dược. Độ biểu hiện thụ thể progesterone cũng bị giảm đáng kể, tương ứng với việc thiếu tác động chủ vận estrogen nội tại. Fulvestrant 500 mg cũng được chứng minh là giảm bài xuất ER và chất đánh dấu khả năng sinh sản (proliferation marker) Ki67 ở mức độ lớn hơn fulvestrant 250 mg trong các khối u vú trên phụ nữ sau mãn kinh trong bối cảnh tân bổ trợ.

[XEM TẠI ĐÂY]

5.2. Dược động học:

Hấp thu: Sau khi tiêm bắp Fulvestrant tác dụng kéo dài, fulvestrant được hấp thu chậm và nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) đạt được sau khoảng 5 ngày. Dùng Fulvestrant liều 500 mg đạt được nồng độ tiếp xúc ở mức hoặc gần mức liều ở trạng thái ổn định trong vòng tháng đầu ([CV] bình quân = AUC 475 [33,4%] ng.ngày/mL, Cmax = 25,1 [35,1%] ng/mL, Cmin = 16,3 [25,9%] ng/mL tương ứng). Ở trạng thái ổn định, nồng độ fulvestrant trong huyết tương được duy trì chỉ trong khoảng dao động hẹp, với khoảng nồng độ đỉnh cao hơn nồng độ đáy tối đa 3 lần. Sau khi tiêm bắp, nồng độ tiếp xúc tỉ lệ với liều dùng trong khoảng liều 50-500 mg.

Phân bố: Fulvestrant phân bố nhanh và rộng. Thể tích phân bố biểu kiến lớn ở trạng thái ổn định (Vdss) khoảng 3-5 L/kg cho thấy sự phân bố ngoài mạch lớn. Fulvestrant gắn kết cao với protein huyết tương (99%). Các phân tử lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL), lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) là các thành phần gắn kết chính. Chưa có nghiên cứu về tương tác cạnh tranh gắn kết protein. Vai trò của globulin gắn kết hormone sinh dục (SHBG) chưa được xác định.

Chuyển hóa: Sự chuyển hóa của fulvestrant chưa được đánh giá đầy đủ, nhưng có liên quan đến sự kết hợp của một số tiến trình biến đổi sinh học tương tự như các steroid nội sinh. Các chất chuyển hóa được xác định (bao gồm chất chuyển hóa 17-ketone, sulphone, 3-sulphate, 3-và 17-glucuronide) là các chất có ít hoạt tính hoặc có hoạt tính tương tự fulvestrant về tác dụng kháng estrogen. Các nghiên cứu sử dụng chế phẩm từ gan và các men tái tổ hợp ở người cho thấy CYP3A4 là isoenzyme P450 duy nhất liên quan đến quá trình oxy hóa của fulvestrant; tuy nhiên, trên in vivo, các đường chuyển hóa không qua P450 chiếm ưu thế hơn. Dữ liệu in-vitro cho thấy fulvestrant không ức chế isoenzyme CYP450.

Thải trừ: Fulvestrant được thải trừ chủ yếu ở dạng chuyển hóa. Đường thải trừ chính qua phân, với ít hơn 1% được đào thải qua nước tiểu. Fulvestrant có độ thanh thải cao, 11±1,7 mL/phút/kg, cho thấy tỷ lệ bài tiết qua gan cao. Thời gian bán hủy sau khi tiêm bắp được chi phối bởi tỷ lệ hấp thu và ước tính là 50 ngày.

Các đối tượng đặc biệt

Dữ liệu phân tích dược động học từ các nghiên cứu pha 3 cho thấy không có sự khác biệt về đặc tính dược động học của fulvestrant ở các độ tuổi (từ 33-89 tuổi), cân nặng (40-127kg) hoặc chủng tộc.

Suy thận: Suy giảm chức năng thận nhẹ và vừa không ảnh hưởng tới dược động học của fulvestrant ở mức độ có ý nghĩa lâm sàng.

Suy gan: Một nghiên cứu lâm sàng đơn liều đã được tiến hành nhằm đánh giá đặc tính dược động học của fulvestrant ở phụ nữ suy gan nhẹ và vừa (Child-Pugh độ A và B). Tiêm bắp với liều cao trong thời gian ngắn. Diện tích dưới đường cong (AUC) ở phụ nữ suy gan tăng tối đa 2,5 lần so với người tình nguyện khỏe mạnh. Ở những bệnh nhân dùng Fulvestrant, việc tăng nồng độ và thời gian tiếp xúc với thuốc ở mức độ này được dự kiến là dung nạp tốt. Chưa đánh giá trên phụ nữ suy gan nặng (Child-Pugh độ C).

Bệnh nhi: Dược động học của fulvestrant đã được đánh giá trong một nghiên cứu lâm sàng trên 30 bé gái bị dậy thì sớm tiến triển có liên quan đến hội chứng McCune Albright (xem mục Dược lực học). Những bệnh nhi từ 1-8 tuổi được dùng fulvestrant tiêm bắp với liều 4 mg/kg/tháng. Trung bình nhân (độ lệch chuẩn – SD) của nồng độ đáy ở trạng thái ổn định (Cminss) và diện tích dưới đường cong (AUCss) ước tính tương ứng là 4,2 (0,9) ng/mL và 3680 (1020) ng*giờ/mL. Mặc dù các dữ liệu thu thập bị giới hạn, nồng độ đáy ở trạng thái ổn định của fulvestrant ở trẻ em thể hiện tương thích với nồng độ này ở người lớn.

5.3 Giải thích:

Chưa có thông tin. Đang cập nhật.

5.4 Thay thế thuốc :

Chưa có thông tin. Đang cập nhật.

*Lưu ý:

Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ

Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com

6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:

6.1. Danh mục tá dược:

Ethanol (96 per cent), Benzyl alcohol, Benzyl benzoate, Castor oil refined

6.2. Tương kỵ :

Do không có nghiên cứu trên tính tương kỵ, thuốc này không được trộn lẫn với các thuốc khác.

6.3. Bảo quản:

Bảo quản ở nhiệt độ 2oC-8oC (trong tủ lạnh).

Bảo quản bơm tiêm chứa sẵn thuốc trong bao bì gốc để tránh ánh sáng.

6.4. Thông tin khác :

Ảnh hưởng trên nội mạc tử cung sau mãn kinh

Dữ liệu tiền lâm sàng không cho thấy tác dụng kích ứng của fulvestrant trên nội mạc tử cung sau mãn kinh. Một nghiên cứu 2 tuần ở phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh tình nguyện điều trị với ethinylestradiol 20 mcg/ngày cho thấy điều trị trước với Fulvestrant 250mg cho kết quả giảm đáng kể sự kích ứng nội mạc tử cung sau mãn kinh so với điều trị trước với giả dược, khi được đánh giá bằng kỹ thuật siêu âm đo độ dày nội mạc tử cung.

Điều trị tân bổ trợ cho bệnh nhân ung thư vú ≤ 16 tuần với Fulvestrant 500mg hay Fulvestrant 250mg không làm thay đổi lâm sàng đáng kể trên độ dày nội mạc tử cung, cho thấy thuốc không có tác động chủ vận. Chưa có bằng chứng về tác dụng ngoại ý trên nội mạc tử cung ở bệnh nhân ung thư vú được nghiên cứu. Chưa có dữ liệu về hình thái học nội mạc tử cung.

Trong 2 nghiên cứu ngắn hạn (1 và 12 tuần) trên bệnh nhân mãn kinh bị bệnh phụ khoa lành tính, siêu âm không thấy có sự khác biệt đáng kể về độ dày nội mạc tử cung giữa nhóm dùng fulvestrant và giả dược.

Ảnh hưởng trên xương

Không có dữ liệu nghiên cứu dài hạn về ảnh hưởng của fulvestrant trên xương. Điều trị tân bổ trợ cho bệnh nhân bị ung thư vú ≤ 16 tuần với Fulvestrant 500mg hay Fulvestrant 250mg không cho kết quả làm thay đổi lâm sàng đáng kể về nồng độ chất đánh dấu chu chuyển xương trong huyết thanh.

Trẻ em

Fulvestrant không được chỉ định cho trẻ em.

Một nghiên cứu pha 2, nhãn mở, đánh giá tính an toàn, hiệu quả và dược động học của fulvestrant ở 30 bé gái từ 1-8 tuổi bị dậy thì sớm tiến triển (Progressive Precocious Puberty) có liên quan tới hội chứng McCune Albright (MAS). Các bệnh nhi này được dùng fulvestrant tiêm bắp với liều 4 mg/kg hàng tháng. Nghiên cứu 12 tháng này đã đánh giá một nhóm tiêu chí về MAS và cho thấy có sự giảm tần suất chảy máu âm đạo và giảm tỷ lệ trưởng thành xương sớm. Nồng độ đáy ở giai đoạn ổn định (steady-state trough concentration) của fulvestrant ở trẻ em trong nghiên cứu này tương thích với nồng độ này ở người lớn (xem mục Dược động học). Chưa có những quan ngại mới về tính an toàn phát sinh từ nghiên cứu mức độ nhỏ này, mặc dù hiện chưa có đủ dữ liệu 5 năm.

6.5 Tài liệu tham khảo:

Dược Thư Quốc Gia Việt Nam

Hoặc HDSD Thuốc.