Savi Abacavir 300

Abacavir (ABC) – SaVi Abacavir 300

Thông tin tờ hướng dẫn sử dụng của thuốc SaVi Abacavir 300

SaVi Abacavir 300 là một loại thuốc thuộc nhóm chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI) do Công ty cổ phần dược phẩm SAVI sản xuất, dùng để phối hợp cùng với các loại thuốc chống vi-rút khác để điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Dưới đây là nội dung tờ hướng dẫn sử dụng của Thuốc SaVi Abacavir 300 (Thông tin bao gồm liều dùng, cách dùng, chỉ định, chống chỉ định, thận trọng, dược lý…):

1. Tên hoạt chất và biệt dược:

Hoạt chất : Abacavir (ABC)

Phân loại: Thuốc kháng virus. Nhóm Nucleoside ức chế phiên mã ngược (NRTI). Thuốc điều trị HIV.

Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)

Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): J05AF06.

Biệt dược gốc: Hiện chưa có thuốc đăng ký biệt dược gốc tại Việt Nam.

Biệt dược: SaVi Abacavir 300

Hãng sản xuất : Công ty cổ phần dược phẩm SAVI (Việt Nam)

Hãng tiếp thị : Công ty cổ phần dược phẩm SAVI (Việt Nam)

2. Dạng bào chế – Hàm lượng:

Dạng thuốc và hàm lượng

Viên nén bao phim chứa Abacavir sulfat tương đương với abacavir 300 mg.

Hình ảnh minh họa:

SAVI ABACAVIR 300
Mỗi viên nén bao phim có chứa:
Abacavir …………………………. 300 mg
Tá dược …………………………. vừa đủ (Xem mục 6.1)

Savi Abacavir 300

3. Thông tin dành cho người sử dụng:

3.1. Savi Abacavir là thuốc gì?

SaVi Abacavir 300 là một loại thuốc thuộc nhóm chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI) do Công ty cổ phần dược phẩm SAVI sản xuất, dùng để phối hợp cùng với các loại thuốc chống vi-rút khác để điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).

3.2. Câu hỏi thường gặp phổ biến:

Cơ chế tác dụng của thuốc Abacavir như thế nào ?

Abacavir là chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI). Abacavir có thể ngăn chặn hoạt động của enzyme sao chép ngược, một loại enzyme do HIV tạo ra để tự nhân lên trong các tế bào mà nó đã lây nhiễm và lây lan trong cơ thể. Abacavir không phải là thuốc chữa khỏi tình trạng nhiễm HIV mà nó thường được dùng phối hợp với các loại thuốc kháng vi-rút khác để làm giảm lượng virus trong máu và giữ nồng độ virus này ở mức thấp.

Abacavir có nằm trong danh mục bảo hiểm y tế ở Việt Nam không?

Abacavir CÓ nằm trong danh mục bảo hiểm y tế ở Việt Nam. Do đó người bệnh có thể được kê đơn và lĩnh thuốc này tại các cơ sở khám chữa bệnh theo tuyến bảo hiểm y tế. Thông thường các thuốc điều trị HIV/AIDS sẽ được cấp phát tại trạm y tế xã theo hướng dẫn quản lý, điều trị và chăm sóc của Bộ Y tế.

4. Thông tin dành cho nhân viên y tế:

4.1 Chỉ định:

Abacavir luôn được dùng kết hợp với ít nhất 2 thuốc kháng retrovirus khác để điều trị nhiễm HIV và thuốc được gọi là chất ức chế phiên mã ngược tương tự nucleoside (NRTI). Khi sử dụng kết hợp với những loại thuốc khác, abacavir luôn làm giảm số lượng virus HIV và làm tăng tế bào CD4 trong máu. Điều này giúp giữ cho hệ miễn dịch càng khỏe mạnh càng tốt để có thể giúp chống lại các nhiễm trùng cơ hội.

4.2 Liều dùng – Cách dùng:

Cách dùng :

Uống thuốc cùng bữa ăn hoặc ngoài bữa ăn. Uống thuốc với nhiều nước.

Cần uống thuốc đúng giờ. Nếu quên thì phải uống ngay khi nhớ. Nếu nhớ ra vào lúc sắp đến giờ uống thuốc thì bỏ qua liều thuốc bị quên và uống vào giờ đã định.

Không tự ý tin gấp đôi liều mà không có ý kiến bác sĩ.

Thông tin bổ sung quan trọng về việc sử dụng Abacavir để điều trị nhiễm HIV-1 :

Savi Abacavir 300 là một trong nhiều sản phẩm có chứa abacavir. Trước khi bắt đầu dùng thuốc, cần xem xét lịch sử y tế về tiếp xúc với bất kỳ sản phẩm nào có chứa abacavir, để tránh dùng lại ở bệnh nhân có tiền sử quá mẫn cảm với abacavir.

Trong một nghiên cứu có kiểm soát (CNA30021) trên nhiều bệnh nhân dùng abacavir 600 mg mỗi ngày một lần có phản ứng quá mẫn nghiêm trọng hơn so với bệnh nhân dùng abacavir 300 mg hai lần mỗi ngày.

Liều dùng:

Liều người lớn: liều uống được đẻ nghị là 600mg abacavir mỗi ngày. Uống 300mg x 2 lần/ngày, cách nhau 12 giờ hoặc 600 mg mỗi ngày một lần, kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác.

Liều trẻ em trên 3 tháng tuổi đến 12 tuổi: uống 8 mg/kg/lần, ngày uống hai lần cách nhau 12 giờ (lên đến tối đa 300 mg x 2 lần/ngày) kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác.

Suy thận: Không cần phải điều chỉnh liều. Tuy vậy, cần tránh dùng khi bị suy thận giai đoạn cuối.

Điều chỉnh liều trong suy gan: Liều đề nghị cho bệnh nhân suy gan nhẹ (điểm số Child-Pugh 5-6) là 200 mg x 2 lần/ngày.

Đặc tính dược động học của abacavir chưa được thiết lập ở những bệnh nhân suy gan từ trung bình đến nặng, do đó Abacavir chống chỉ định ở những bệnh nhân này.

Người cao tuổi: Chưa có thông tin hiện nay về dược động học đối với người trên 65 tuổi.

4.3 Chống chỉ định:

Dị ứng với abacavir hoặc với một trong các thành phần của thuốc. Có tiền sử dị ứng với abacavir.

Suy gan từ trung bình đến nặng.

Người mang thai, cho con bú.

4.4 Thận trọng:

Cảnh báo:

Phản ứng quá mẫn: Phản ứng quá mẫn nghiêm trọng và đôi khi gây tử vong có liên quan đến việc kết hợp abacavir với các sản phẩm khác có chứa abacavir. Để giảm thiểu nguy cơ của một phản ứng quá mẫn cảm đe dọa tính mạng, phải vĩnh viễn chấm dứt dùng abacavir nếu không thể loại trừ phản ứng quá mẫn hoặc ngay cả khi các chẩn đoán khác là có thể.

Sau khi xảy ra phản ứng quá mẫn với abacavir, không bao giờ được dùng lại abacavir hoặc bất kỳ sản phẩm khác có chứa abacavir. Phản ứng quá mẫn lập lại gây tử vong có liên quan đến việc tái sử dụng abacavir ở bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với abacavir.

Chú ý: Nếu ngưng dùng abacavir vì một phản ứng dị ứng, KHÔNG BAO GIỜ dùng lại abacavir sulfate hoặc bất kỳ loại thuốc khác có chứa abacavir một lần nữa. Nếu dùng abacavir hoặc bất kỳ loại thuốc khác có chứa abacavir một lần nữa sau khi đã xảy ra một phản ứng dị ứng thì TRONG VÒNG VÀI GIỜ có thể xảy ra các triệu chứng đe dọa tính mạng bao gồm huyết áp rất thấp hoặc tử vong.

Các dấu hiệu và triệu chứng của quá mẫn: Quá mẫn cảm với abacavir là hội chứng lâm sàng đa cơ quan thường được đặc trưng bởi các dấu hiệu hay triệu chứng của một trong 2 hoặc nhiều hơn các nhóm sau đây :

Nhóm 1: Sốt

Nhóm 2: Phát ban

Nhóm 3: Tiêu hóa (bao gồm buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy hoặc đau bụng).

Nhóm 4: Thể tạng (bao gồm cả tình trạng bất ổn, mệt mỏi, hoặc đau nhức toàn thân)

Nhóm 5: Hô hấp (bao gồm khó thở, ho hoặc viêm họng).

Quá mẫn với abacavir dựa theo trình bày của một dấu hiệu hoặc triệu chứng đã được báo cáo không thường xuyên. Mẫn cảm với abacavir được báo cáo xảy ra trong khoảng 8% của số lượng 2.670 bệnh nhân (n=206) trong 9 thử nghiệm lâm sàng (từ 2% đến 9%) thực hiện từ tháng 11 năm 1999 đến tháng 2 năm 2002. Dữ liệu về thời gian để bắt đầu và các triệu chứng nghi ngờ quá mãn đã được thu thập dựa trên một module (đơn vị đại diện chuẩn hóa) thu thập dữ liệu chi tiết.

Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 6 tuần đầu điều trị với abacavir, mặc dù các phản ứng có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong khi điều trị

Thời gian trung bình để bắt đầu là 9 ngày, có 89% xuất hiện trong vòng 6 tuần đầu tiên, 95% bệnh nhân báo cáo các triệu chứng có từ 2 hoặc nhiều hơn trong 5 nhóm được liệt kê ở trên.

Các dấu hiệu và triệu chứng khác ít phổ biến hơn của quá mẫn bao gồm thờ ơ, thoái hoá cơ (myolysis), phù nề, phát hiện bất thường khi chụp x-ray ngực (thâm nhiễm ưu thế, có thể đã bị khu trú cục bộ) và dị cảm. Sốc phản vệ, suy gan, suy thận, hạ huyết áp, người lớn với hội chứng suy hô hấp, suy hô hấp và tử vong đã xảy ra khi kết hợp với phản ứng quá mẫn. Trong một nghiên cứu, có 4 bệnh nhân (11%) đã từng bị hạ huyết áp, khi nhận abacavir 600 mg mỗi ngày một lần đã xảy ra phản ứng quá mẫn so với 0 bệnh nhân được nhận abacavir 300 mg hai lần mỗi ngày.

Phát hiện biểu hiện bên ngoài liên quan đến quá mẫn abacavir trong một số bệnh nhân bao gồm bệnh hạch bạch huyết, tốn thương niêm mạc (viêm kết mạc, loét miệng) và phát ban. Ban thường xuất hiện dạng dát sần (maculopapular) hoặc mày đay, nhưng có thể biến dị trong xuất hiện. Đã có báo cáo của ban đỏ đa dạng. Phản ứng quá mẫn có thể đã xảy ra mà không có phát ban.

Các bất thường xét nghiệm liên quan với quá mẫn abacavir trong một số bệnh nhân bao gồm kiểm tra chức năng gan tăng cao, tăng, creatine phosphokinase, creatinine cao và giảm lympho bào.

Quản lý lâm sàng về quá mẫn : Ngưng dùng abacavir ngay khi nghi ngờ có phản ứng quá mẫn. Để giảm thiểu nguy cơ phản ứng quá mẫn cảm đe dọa tính mạng, vĩnh viễn chấm dứt không dùng abacavir nếu phản ứng quá mẫn không thể được loại trừ ra, ngay cả khi chẩn đoán khác là có thể (ví dụ như khởi phát cấp tính các bệnh đường hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi, viêm họng, cúm, viêm dạ dày ruột hoặc phản ứng các thuốc khác). Sau khi xảy ra phản ứng quá mẫn với abacavir, không bao giờ được dùng lại abacavir hoặc bất kỳ sản phẩm khác có chứa abacavir bởi vì có thể xảy ra các triệu chứng nặng hơn chỉ trong vòng vài giờ và có thể bao gồm hạ huyết áp đe dọa mạng sống và tử vong.

Nhiễm acid lactic /Gan phì đại do nhiễm mỡ : Nhiễm acid lactic và gan phình to nghiêm trọng kèm nhiễm mỡ kể cả trường hợp tử vong đã được báo cáo trong việc sử dụng các chất tương tự nucleo-side đơn trị hoặc kết hợp, bao gồm cả abacavir và các thuốc kháng retrovirus khác. Buồn nôn và mệt mỏi mà không cải thiện được có thể là triệu chứng của nhiễm acid lactic. Phần lớn các trường hợp này xảy ra ở phái nữ. Béo phì và phơi nhiễm kéo dài với nucleoside có thể là yếu tố nguy cơ. Đặc biệt thận trọng sử dụng abacavir cho bất kỳ bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ về bệnh gan, tuy nhiên, trường hợp này cũng đã được báo cáo ở những bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ đã biết. Điều trị bằng abacavir nên ngưng trong bất kỳ bệnh nhân phát hiện các dấu hiệu tiến triển lâm sàng hoặc xét nghiệm cho gợi ý nhiễm acid lactic hoặc nhiễm độc gan rõ ràng (có thể bao gồm gan to và gan nhiễm mỡ ngay cả trong trường hợp không tăng cao men transaminase được đánh dấu). Nhiễm acid lactic là một trường hợp khẩn cấp y tế và phải được điều trị trong bệnh viện.

Thận trọng

Tổng quát: Abacavir phải luôn luôn được sử dụng kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác. Abacavir không nên được chí định như là tác nhân duy nhất khi phác đồ điều trị kháng virus dang cần thay đổi do mất đáp ứng của thuốc với virus.

Bệnh nhân đã từng điều trị: Trong các thử nghiệm lâm sàng, bệnh nhân đã từng phơi nhiễm kéo dài với NRTI (Nucleoside analog reverse-transcriptase inhibitors) hoặc những người đã nhiễm HIV-1 được phân lập có chứa nhiều đột biến đề kháng NRTI nên đã hạn chế đáp ứng với abacavir. Khả năng đề kháng chéo giữa abacavir và các NRTI khác nên được xem xét khi lựa chọn phác đồ điều trị mới cho bệnh nhân đã từng được điều trị trước đây.

Tái phân bố chất béo: Phân bố lại/tích tụ mỡ trong cơ thể bao gồm cả béo phì trung tâm, tích tụ mỡ mở rộng phần sau cô (bướu trâu), làm hao mòn ngoại vi, teo tóp mặt, nở ngực và tình trạng “mặt tròn bàu bĩnh (cushingoid)” đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân được điều trị thuốc kháng retrovirus. Cơ chế và hậu quả lâu dài của những sự kiện này hiện vẫn chưa biết. Mối quan hệ nhân quả chưa được thành lập.

Phải rất thận trọng khi dùng abacavir, nhất là trong 6 tuần đầu, vì nguy cơ phản ứng quá mẫn (4%), đôi khi gây tử vong. Phát hiện phản ứng quá mẫn thường rất khó vì dễ lẫn với một bệnh toàn thân. Phải ngừng ngay abacavir nếu có các triệu chứng quá mẫn và không bao giờ được dùng lại. Người bệnh phải được giám sát chặt trong 2 tháng đầu điều trị, tuy phản ứng quá mẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Người bệnh bắt đầu điều trị lại sau khi ngừng thuốc có nguy cơ đặc biệt ngay cả trước đây không có triệu chứng quá mẫn. Do đó, cần khuyên người bệnh phải uống thuốc đều, không được ngắt quãng.

Abacavir không được dùng cho người bị bệnh gan nặng và phải dùng rất thận trọng đối với người có nguy cơ cao bị bệnh gan (phụ nữ béo phì, có gan to, bị viêm gan mạn tính B, C và điều trị kết hợp thuốc kháng virus). Điều trị phải ngừng ngay nếu chức năng gan xấu đi nhanh hoặc nếu gan to hoặc nhiễm toan chuyển hóa mà không giải thích được.

Thận trọng dùng abacavir ở người bị suy thận giai đoạn cuối.

Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.

Không có tác động.

4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:

Xếp hạng cảnh báo

AU TGA pregnancy category: B3

US FDA pregnancy category: NA

Thời kỳ mang thai:

Không dùng cho phụ nữ mang thai.

Trên chuột thí nghiệm, thuốc qua nhau thai và gây độc cho phôi và thai. Nghiên cứu ở chuột cống mang thai cho thấy abacavir thâm nhập được vào thai nhi thông qua nhau thai. Dị tật của thai nhi (tăng tỷ lệ mắc phải chứng phù toàn thân (anasarca) của thai và dị tật xương) và độc tính phát triển (trọng lượng cơ thể của thai nhi bị suy giảm và chiều dài chóp-mông giảm) đã được quan sát thấy ở chuột cống với liều gấp 35 lần phơi nhiễm của người, dựa trên diệt tích dưới đường cong AUC.

Độc tính phôi và thai nhi (gia tăng tiêu phôi (resorptions) giảm thể trọng của thai nhi) và độc tính cho con cái (tăng tỷ lệ thai chết lưu và trọng lượng cơ thể thấp hơn) đã xảy ra ở một nửa của liều lượng nói trên trong các nghiên cứu khả năng sinh sản riêng biệt được tiến hành ở chuột cống. Ở thỏ, không thấy có độc tính phát triển và không có sự gia tăng dị tật thai nhỉ xảy ra ở liều cao gấp 8,5 lần phơi nhiễm của liều đề nghị ở người dựa trên diện tích dưới đường cong AUC.

Chưa có nghiên cứu đầy đủ và được kiểm soát ở phụ nữ mang thai. Abacavir chỉ nên được sử dụng trong thời kỳ mang thai khi lợi ích tiềm năng lớn hơn nguy cơ.

Thời kỳ cho con bú:

Không dùng cho phụ nữ đang cho con bú.

Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh (Hoa kỳ) khuyên các bà mẹ nhiễm HIV không nuôi con bằng sữa mẹ để tránh nguy cơ truyền nhiễm HIV sang con qua sữa, sau khi sinh. Mặc dù không biết abacavir có được bài tiết vào sữa mẹ hay không, nhưng người ta đã biết abacavir được bài tiết vào sữa của những con chuột cống cho con bú. Do tiềm năng lây nhiễm HIV và tiềm năng có các phản ứng phụ nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh bú sữa mẹ, các bà mẹ nên được hướng dẫn không cho con bú nếu họ đang được dùng abacavir.

4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):

Thường gặp, ADR ≥ 1/100

Tiêu hóa: Nôn, buồn nôn.

Toàn thân: Nhức đầu, chán ăn, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ hoặc ngủ ít.

Ngoài da: Phát ban, mề đay.

Quá mẫn (2-5%) : Phản ứng mẫn cảm nặng, có thể gây tử vong. Phản ứng quá mẫn hay xảy ra nhất là trong 6 tuần điều trị đầu tiên hoặc trong trị liệu gián đoạn và có thể biểu hiện ở nhiều cơ quan. Các triệu chứng quá mẫn bao gồm các triệu chứng ở da (nổi sần phỏng, mày đay); tiêu hóa (buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, loét miệng); hô hấp (khó thở, ho, đau họng, thâm nhiễm phổi trên X – quang), toàn thân (sốt, ngủ lịm, khó chịu, phù, sưng hạch, hạ huyết áp , viêm kết mạc, phản vệ); thần kinh – tâm trí (nhức đầu, giảm cảm giác); huyết học (giảm bạch cầu); gan – tụy (rối loạn chức năng gan, viêm gan, suy gan); cơ – xương (đau cơ, phân giải cơ, đau khớp, tăng creatine phosphokinase); tiết niệu (tăng creatinine, suy thận). Các triệu chứng hay gặp ở trẻ là nổi mẩn da, rối loạn tiêu hóa. Các triệu chứng mẫn cảm rất dễ bị chẩn đoán nhầm với các bệnh khác, sẽ mất đi nếu ngừng abacavir nhưng càng ngày càng nặng nếu vẫn tiếp tục dùng.

Chẩn đoán dựa vào có nổi mẩn hoặc có hai trong số các triệu chứng sau: Sốt, rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng, ỉa chảy), mệt mỏi, khó chịu, chán ăn, triệu chứng hô hấp (viêm họng, ho, thở nông, khó thở).

Ít gặp, 1/1000 ≤ ADR < 1/100

Toàn thân: Sốt, đau khớp, phù

Máu: Sưng hạch, giảm bạch cầu lympho, tăng triglycerid trong máu;

Khác: Viêm kết mạc, rối loạn phân bố mỡ (giảm mỡ ở tay, chân, mặt; tăng mỡ ở cổ, ngực, thân).

Tiêu hóa: Chán ăn, loét miệng, đau bụng, viêm tụy

Hô hấp: Khó thở, đau họng, ho

Tuần hoàn: Hạ huyết áp

Thần kinh: Loạn cảm.

Hiếm gặp, ADR ≤ 1/1000

Viêm tụy.

Nhiễm acid lactic huyết có thể nguy hiểm đến tính mạng, thường xảy ra ở người bị gan rất to, gan xơ hóa mỡ dùng các thuốc nucleoside ức chế enzym phiên mã ngược. Các dấu hiệu sớm gồm có các rối loạn tiêu hóa thông thường (buồn nôn, nôn, đau bụng), cảm giác mệt xỉu, ăn không ngon, sụt cân, các dấu hiệu hô hấp (thở nhanh và/hoặc thở sâu), hoặc dấu hiệu thần kinh, kể cả liệt.

Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:

Quá mẫn với thuốc: Do phản ứng quá mẫn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, cần theo dõi và thăm khám 2 tuần một lần trong 2 tháng đầu. Ngừng thuốc ngay nếu có triệu chứng quá mẫn hoặc nghi ngờ có quá mẫn và không được dùng lại nếu đã phải ngừng thuốc do quá mẫn (vì lần sau phản ứng quá mẫn sẽ nặng hơn). Cần chú ý đến triệu chứng hay gặp là da nổi mẩn. Nếu bắt buộc phải dùng lại abacavir sau khi ngừng thuốc mà chắc chắn không phải do quá mẫn thì người bệnh phải được điều trị và theo dõi tại bệnh viện có đủ phương tiện cấp cứu hồi sức. Phải thận trọng khi dùng đồng thời các thuốc độc với da. Hướng dẫn bệnh nhân uống thuốc đều, nhận biết các triệu chứng quá mẫn và thông báo cho thầy thuốc ngay khi bắt đầu dùng lại thuốc hoặc khi có triệu chứng.

Bị nhiễm acid lactic huyết: Tạm ngừng hoặc ngừng hẳn dùng abacavir nếu thấy men gan tăng nhanh, gan to, toan huyết không rõ nguyên nhân. Chú ý đến các triệu chứng tiêu hóa tưởng như không quan trọng (nôn, buồn nôn, đau bụng, các triệu chứng hô hấp và thần kinh) chức năng gan bị giảm, gan bị nhiễm mỡ, gan to dần hoặc bị nhiễm acid lactic.

Không được dùng lại abacavir cho bệnh nhân bị quá mẫn với abacavir.

Nếu enzym gan tăng cần ngừng dùng thuốc nucleoside.

4.8 Tương tác với các thuốc khác:

Ít có tương tác giữa abacavir và các thuốc được chuyển hóa nhờ cytochrome P450: P450 không quan trọng đối với chuyển hóa abacavir và abacavir không ức chế cytochrome P4503A4, CYP3A4, CYP2C9, CYP2D6. Bởi vậy, thuốc ít có nguy cơ tương tác với các thuốc ức chế protease và các thuốc chuyển hóa nhờ P450. Abacavir không có tương tác đáng kể với zidovudine, lamivudine.

Rượu làm giảm đào thải abacavir và do đó làm tăng nồng độ thuốc trong máu. Abacavir không ảnh hưởng lên chuyển hóa của rượu.

Tác dụng của abacavir tăng khi được dùng kết hợp với didanosine, zalbitacine, lamivudine, stavudine

Rifampicn và các thuốc xúc tác enzym mạnh (phenobarbital, phenytoin) có tác động lên UDP glucuronyltransferase nên có thể làm giảm nhẹ nồng độ abacavir trong máu.

– Abacavir lam tang tốc độ thanh thai cua methadone vi vay thỉnh thoảng có thể phải điều chỉnh liều methadone. Ngược lại, dùng methadone đồng thời với abacavir làm giảm nồng độ tối đa của abacavir trong máu và làm thời gian vận chuyển ở thận của thuốc kéo dài.

Các retinoid có thể có tương tác với abacavir do được đào thải bởi alcol-dehydrogenase

Abacavir làm tăng nồng độ của amprenavir.

Trong microsomes gan người, abacavir không ức chế các men cytochrome P450 (2C9, 2D6, 3A4) Dựa trên những dữ liệu này, không chắc rằng tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng sẽ xảy ra giữa abacavir và các thuốc được chuyển hóa bởi men cytochrome P450 (2C9, 2D6, 3A4) nêu trên.

Dựa vào các đường trao đổi chất thông thường của abacavir, zidovudine thông qua men glucuronyltransferase, một nghiên cứu chéo đánh giá các liều duy nhất của abacavir (600 mg), lamivudine (150 mg) và zidovudine (300 mg) đơn trị hoặc kết hợp được áp dụng cho 15 bệnh nhân nhiễm HIV.

Phân tích cho thấy không có sự thay đổi lâm sàng liên quan đến dược động học của abacavir khi kết hợp với lamivudine hay zidovudine hoặc khi kết hợp lamivudine với zidovudine. Phơi nhiễm với lamivudine (AUC giảm 15%) và phơi nhiễm với zidovudine (AUC tăng 10%) không làm thay đổi lâm sàng có liên quan với abacavir khi được dùng đồng thời.

Do đường trao đổi chất thông thường của chúng thông qua men alcohol dehydrogenase, sự tương tác dược động học giữa abacavir và ethanol đã được nghiên cứu ở 24 bệnh nhân nam nhiễm HIV. Mỗi bệnh nhân nhận được các phương pháp điều trị theo các trường hợp riêng biệt sau đây: 600 mg liều duy nhất của abacavir, 0,7g/kg ethanol (tương đương với 5ly rượu) và abacavir 600 mg cộng với 0,7g/kg ethanol. Việc dùng chung ethanol với abacavir dẫn đến sự gia tăng 41% nồng độ dưới đường cong AUC(vô cực) của abacavir và tăng 26% thời gian nửa đời của abacavir t1/2.

Ở nam giới, abacavir không có tác dụng lên những đặc tính dược động học riêng của ethanol, do đó không có tương tác có ý nghĩa lâm sàng được dự kiến ở nam giới. Sự tương tác này chưa được nghiên cứu ở nữ giới.

4.9 Quá liều và xử trí:

Không có thuốc giải độc. Không biết thuốc có thể đào thải bằng thẩm tách màng bụng hay lọc máu không. Điều trị triệu chứng.

5. Cơ chế tác dụng của thuốc :

5.1. Dược lực học:

Abacavir là một nucleoside ức chế enzyme phiên mã ngược (reverse transcriptase inhibitor), có tác dụng kháng chọn lọc retrovirus HIV-1 và HIV-2, kể cả các chủng HIV-1 kém nhậy cảm với zidovudine, lamivudine, zalcitabine, didanosine hoặc nevirapine. Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược nên chặn sự tổng hợp chuỗi ADN và ngăn sự nhân lên của virus. Trong, tế bào, abacavir nhờ enzyme của tế bào được chuyển thành carbovir triphosphate, một chất chuyển hóa có hoạt tính. Chất này là một chất tương tự của dGTP (deoxyguanosin-5′- triphosphate) nên đã cạnh tranh với dGTP là cơ chất thông thường của enzyme phiên mã ngược của virus và đã sáp nhập vào DNA của virus, làm ức chế hoạt tính enzyme phiên mã ngược của virus. Chất tương tự nucleoside được sáp nhập này thiếu nhóm 3′-OH nên đã ngăn cản sự gắn 5′ vào 3′ phosphodiester cần thiết để kéo dài chuỗi DNA, như vậy làm kết thúc sự tăng trưởng của virus. In vitro thuốc có tác dụng hiệp đồng với nevirapine hoặc với zidovudine. Abacavir kết hợp với didanosine, zalcitabine, lamivudine và stavudine cho tác dụng cộng. Sự kháng thuốc in vivo và in vitro đối với abacavir xảy ra tương đối chậm. Các chủng kháng abacavir cũng giảm nhạy cảm với lamivudine, zalcitabine và/hoặc didanosine nhưng vẫn nhạy cảm với zidovudine và stavudine.

Ít có khả năng kháng chéo giữa abacavir và các thuốc ức chế protease và các thuốc không phải nucleoside ức chế enzym sao chép ngược. Dùng kết hợp với zidovudine và lamivudine, thuốc có tác dụng làm giảm lượng virus và làm tăng tế bào CD4 trong máu.

* Hoại tính kháng virus:

Nồng độ thuốc cần thiết để ức chế 50% nhân lên của virus (IC50) dao động từ 3,7 đến 5,8 µM (1 µM =0,28 mcg/mL) và từ 0,07 đến 1,0 µM chống lại HIV-1 IIIB và HIV-1 BaL tương ứng và là 0,26 ± 0,18 µM đối với 8 phân lập lâm sàng. Giá trị IC50 của abacavir khác nhau khi kháng HIV-1 dạng A-E (clades A-E) dao động từ 0,0015 đến 1,0 µM và chống lại các phân lập HIV-2, từ 0,024 đến 0,49 µM.

Abacavir có tác động hiệp đồng (cộng) im viro khi kết hợp với am-prenavir, nevirapine và zidovudine và tăng hoạt tính khi kết hợp với didanosine, lamivudine, stavudine, tenofovir và zalcitabine. Ribavirin không có ảnh hưởng lên hoạt tính chống HIV-1 in vitro của abacavir.

* Đề kháng:

Phân lập HIV-1 có tính nhạy cảm giảm với abacavir đã được lựa chọn trong thử nghiệm in vitro và cũng thu được từ bệnh nhân được điều trị với abacavir. Phân tích di truyền các phân lập từ bệnh nhân điều trị thất bại từ liệu pháp abacavir chứng minh rằng các acid amin thay thế K65R, L74V, Y115F và M184V trong HIV-1 RT góp phần kháng abacavir.

Trong nghiên cứu cho người lớn chưa được điều trị trước đây, dùng Abacavir 600 mg một lần mỗi ngày (n = 384) hoặc 300 mg hai lần mỗi ngày (n = 386), theo phác đồ kết hợp với lamivudine 300 mg một lần mỗi ngày và efavirenz 600 mg một lần mỗi ngày (nghiên cứu CNA30021), tỷ lệ thất bại về mặt virus học vào tuần thứ 48 giữa 2 nhóm là tương tự nhau (cả hai liều đều là 11% ).

Phân tích kiểu gen (n=38) và phân tích kiểu hình (n= 35) của các thất bại trên dòng phân lập từ nghiên cứu này đã cho thấy các đột biến RT (reverse transcriptase) xuất hiện trong quá trình điều trị abacavir mỗi ngày một lần và hai lần mỗi ngày là K65R, L74V, Y115F và M184V / I. Các đột biến M184V/I là đột biến thường thấy nhất trong điều trị thất bại virus phân lập từ bệnh nhân dùng abacavir một lần mỗi ngày (56%, 10/18) và hai lần mỗi ngày (40%, 8/20).

* Đề kháng chéo:

Đề kháng chéo đã quan sát thấy trong số các thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI). Chủng tái tổ hợp ở phòng thí nghiệm của HIV-1 HXB2 có chứa lớp đa kháng abacavir liên quan đến nhiều đột biến, cụ thể là K65R, L74V, M184V và Y115F, đã thể hiện đề kháng chéo in vitro với didanosine, emtricitabine, lamivudine, tenofovir, zalcitabine. Các đột biến K65R thể hiện tính kháng abacavir, didanosine, emtricitabine, lamivudine, stavudine, tenofovir và zalcitabine, đột biến L74V thể hiện tính kháng abacavir, didanosine và zalcitabine và đột biến M184V thể hiện tính kháng abacavir, didanosine, emtricitabine, lamivudine và zalcitabine. Số lượng ngày càng tăng của đột biến tương tự thymidine (TAMs: M41L, D67N, K70R, L210W, T215Y/F, K219E/R/ H/Q/N) có liên quan đến việc suy giảm trong tính nhạy cảm với abacavir.

Cơ chế tác dụng:

Abacavir là một thuốc thuộc nhóm nucleosid có tác dụng như một chất ức chế enzym phiên mã ngược (NRTI), có tác dụng kháng chọn lọc retrovirus HIV-1 và HIV-2, kể cả các chủng HIV-1 kém nhạy cảm với zidovudin, lamivudin, zalcitabin, didanosin hoặc nevirapin. Khi vào cơ thể, abacavir được phosphoryl hóa bởi adenosin phosphotransferase và chuyển đổi thành carbovir triphosphat, một chất chuyển hóa có hoạt tính nhờ các enzym có trong tế bào. Do vậy, sự chuyển hóa của abacavir xảy ra trong cả các tế bào bị nhiễm virus và tế bào lành. Chất chuyển hóa carbovir triphosphat có cấu trúc tương tự dGTP (deoxyguanosin-5’- triphosphat) nên đã cạnh tranh với dGTP – một cơ chất của enzym phiên mã ngược của virus, và được gắn vào DNA của virus. Do cấu trúc của chất chuyển hóa thiếu nhóm 3’-OH nên không thể tạo liên kết 3’,5’-phosphodiester, làm mất khả năng kéo dài chuỗi DNA nên gây gián đoạn sự tăng trưởng của virus.

[XEM TẠI ĐÂY]

5.2. Dược động học:

Thuốc hấp thu nhanh và tốt sau khi uống. Sinh khả dụng ở người lớn sau khi uống vào khoảng 83%. Tỷ lệ thuốc gắn với protein huyết tương khoảng 50% nên ít có nguy cơ tương tác thuốc do chuyển đổi vị trí gắn ở protein. Thời gian nồng độ thuốc tối đa đạt được trung bình là 1,5 giờ (với thuốc viên) và khoảng 1 giờ (với thuốc nước). Ở trạng thái cân bằng, nồng độ thuốc tối đa trong máu là 3 microgam/ ml khi uống liều điều trị (với thuốc viên, hơi cao hơn với thuốc nước). Nồng độ thuốc không bị ảnh hưởng của thức ăn. Nếu đưa thuốc theo đường tĩnh mạch, thể tích phân bố vào khoảng 0,8 lít/kg, cho thấy thuốc vào các mô dễ dàng. Abacavir dễ dàng vào dịch não-tủy (tỷ lệ dịch não-tủy/huyết tương khoảng 30 – 44%). Thuốc được chuyển hóa chủ yếu ở gan bởi các enzym alcol-dehydrogenase và glucuronyl – transferase (66% liều thuốc được thải dưới dạng acid 5′- carboxylic và liên hợp 5′-glucuronic trong nước tiểu). Chỉ có 2% thuốc được đào thải dưới dạng không đổi ở trong nước tiểu, 83% thuốc (dạng nguyên vẹn và các dạng chuyển hóa) được đào thải theo nước tiểu; còn lại được đào thải theo phân. Nửa đời trong máu là 1,5 giờ. Dùng thuốc dài ngày với liều điều trị (300 mg, ngày hai lần) không thấy thuốc bị tích lũy đáng kể trong cơ thể. Để điều trị nhiễm HIV, thuốc (dạng muối sulfat) được dùng theo đường uống, kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác. Abacavir không diệt virus HIV nên trong thời gian điều trị, bệnh nhân vẫn cần phải triệt để áp dụng các biện pháp an toàn (tình dục an toàn, không dùng bơm kim tiêm chung v.v…) để tránh lây nhiễm.

* Dược động học lâm sàng ở người lớn :

Các đặc tính dược động học của abacavir chưa được nghiên cứu theo cách chuẩn có hệ thống, bệnh nhân người lớn bị nhiễm HIV hoặc được nhận một liều tiêm tĩnh mạch (IV) duy nhất 150 mg hoặc được nhận một liều uống duy nhất hoặc được nhận uống đa liều. Các đặc tính dược động học của abacavir độc lập với liều dùng trên phạm vi từ 300 đến 1200 mg / ngày.

* Hấp thu và sinh khả dụng:

Abacavir được hấp thu nhanh chóng và rộng rãi sau khi uống. Trung bình hình học tuyệt đối sinh khả dụng của abacavir đường uống là 83%. Sau khi uống liều 300 mg, hai lần mỗi ngày ở 20 bệnh nhân, trạng thái ổn định của nồng độ đỉnh huyết thanh của abacavir (Cmax) là 3,0 ± 0,89 mcg /mL (giá trị trung bình ± SD) và diện tích dưới đường cong AUC (0-12 giờ) là 6,02 ± 1,73 mcg * giờ / mL. Sau khi uống một liều duy nhất 600 mg abacavir ở 20 bệnh nhân, Cmax là 4,26 ± 1,19 mcg/ mL (giá trị trung binh± SD) và AUC (ɷ) là 11,95 ± 2,51 mcg * giờ/ mL.

Sinh khả dụng của abacavir uống được đánh giá ở bệnh nhân nhịn đói và đã ăn. Không có sự khác biệt đáng kể về phơi nhiễm toàn thân (AUC vô cực) ở trạng thái ăn no và nhịn đói, do đó abacavir có thể được uống cùng với thức ăn hay không.

* Phân bố :

Thể tích phân phối biểu kiến sau khi nhận liều tiêm tĩnh mạch (IV) abacavir là 0,86± 0,15 L/kg cho thấy abacavir được phân bố vào cả không gian ngoại mạch. Trong 3 đối tượng, nồng độ dưới đường cong của dịch não tủy AUC CSF (0-6 giờ) so với nồng độ dưới đường cong của abacavir trong huyết tương AUC (0-6 giờ) có tỷ lệ dao động từ 27% đến 33%. Abacavir gắn kết với protein huyết tương người khoảng 50%. Abacavir gắn kết với protein huyết tương không phụ thuộc vào nồng độ. Nồng độ thuốc gắn phóng xạ trong tổng lượng máu và trong huyết tương là tương tự nhau, chứng tỏ abacavir dễ dàng phân phối vào trong hồng cầu.

* Chuyển hóa :

Ở người, abacavir chuyển hóa không đáng kể bởi enzyme cytochrome P450 Các đường chính loại bỏ abacavir là chuyển hóa bởi men dehydrogenase alcohol (để tạo thành 5′-carboxylic acid) và men glucuronyl transferase (để tạo thành 5′-glucuronide). Các chất chuyển hóa này không có hoạt tính kháng virus. Trong thí nghiệm in vitro cho thấy abacavir không ức chế của các men CYP3A4, CYP2D6, CYP2C2 của người hoặc có liên quan đến tác động ở nồng độ lâm sàng.

*Thải trừ:

Việc loại bỏ abacavir được xác định định lượng trong một nghiên cứu cân bằng khối lượng sau khi tiêm một liều 600 mg abacavir có gắn 14C, kết quả cho thấy đã phục hồi được 99% lượng phóng xạ với tỷ lệ 1,2% là abacavir được bài tiết trong nước tiểu bao gồm 30% là chất chuyển hóa 5 ‘-carboxylic acid, 36% là chất chuyển hóa 5’-glucuronide và 15% gồm các chất chuyển hóa thứ yếu không xác định trong nước tiểu. Loại bỏ theo đường phân (fecal) chiếm khoảng 16% liều dùng.

Trong các nghiên cứu một liều duy nhất, đã quan sát thấy nửa đời thải trừ (t1/2) là 1,54 ± 0,63 giờ. Sau khi tiêm tĩnh mạch, độ thanh thải là 0,80 ± 0,24 L/ giờ / kg (trị trung bình ± SD).

* Dược động học của các quần thể đặc biệt :

Người lớn bị suy thận :

Các đặc tính dược động học của abacavir đã không được xác định ở bệnh nhân suy giảm chức năng thận. Bài tiết của abacavir qua thận là đường thải trừ thứ yếu ở người.

Bệnh nhân nhi khoa:

Dược động học của abacavirđã được nghiên cứu sau khi hoặc nhận một liều hoặc nhận liều lặp lại (đa liều) ở 68 bệnh nhân nhi khoa. Khi nhận đa liều abacavir 8mg /kg, hai lần mỗi ngày, trạng thái ổn định của nồng độ dưới đường cong AUC (0-12 giờ) là 9,8 ± 4,56 mcg * giờ/ ml và nồng độ tối đa Cmax là 3,71 ± 1,36 mg/ ml (trị trung bình ± SD).

Bệnh nhân lão khoa :

Dược động học của abacavir chưa được nghiên cứu ở những bệnh nhân trên 65 tuổi.

Giới tính bệnh nhân :

Một phân tích dược động học ở nhóm bệnh nhân nam giới nhiễm HIV (n=304) và nữ giới (n=67) cho thấy không có sự khác biệt giới trong nồng độ dưới đường cong AUC của abacavir đã được chuẩn hóa theo thể trọng cơ thể gầy.

Chủng tộc bệnh nhân :

Không có sự khác biệt đáng kể giữa người da đen và người da trắng trong dược động học của abacavir.

5.3. Hiệu quả lâm sàng:

Chưa có thông tin.

5.4. Dữ liệu tiền lâm sàng:

Chất sinh ung thư, đột biến và sút kém của sinh sản :

Trong nghiên cứu chất gây ung thư abacavir dùng đường uống ở 3 mức độ liều lượng cho các nhóm riêng biệt của những con chuột nhắt và chuột cống trong 2 năm. Kết quả cho thấy có sự gia tăng tỷ lệ mắc phải các khối u ác tính và lành tính. Các khối u ác tính xảy ra ở tuyến bao qui đầu (preputial) chuột đực và nếp gấp tuyến âm vật của chuột cái của cả hai loài và ở gan của chuột cống cái. Ngoài ra, các khối u lành tính cũng xảy ra trong gan và tuyến giáp của chuột cống cái. Những quan sát này được thực hiện với phơi nhiễm toàn thân ở liều cao gấp khoảng từ 6 đến 32 lần liều khuyến cáo phơi nhiễm ở người. Người ta chưa biết các dự đoán kết quả của nghiên cứu chất gây ung thư trên động vật gặm nhấm có thể áp dụng được với người hay không.

Trong một nghiên cứu di truyền tế bào in vitro abacavir gây ra quang sai nhiễm sắc thể trong cả hai trường hợp hiện diện hoặc vắng mặt sự kích hoạt chuyển hóa trên tế bào bạch huyết của người.

Trong một xét nghiệm ung thư hạch L5178Y chuột nhắt abacavir đã gây đột biến trong trường hợp không có kích hoạt chuyển hóa, mặc dù nó không gây đột biến với sự hiện diện của kích hoạt trao đổi chất.

Trong một xét nghiệm in vivo tế bào vi nhân tủy xương chuột nhắt abacavir đã gây gẫy vụn nhiễm sắc thể (clastogenic) ở chuột nhắt đực và không gây clastogenic ở chuột nhắt cái.

Abacavir không gây đột biến gen trong xét nghiệm gây biến dị vi khuẩn với sự hiện diện hoặc vắng mặt kích hoạt chuyển hóa.

Abacavir không có các tác dụng phụ trên việc thực hiện giao phối hay khả năng sinh sản của chuột cống đực và cái với liều cao gấp khoảng 8 lần phơi nhiễm so với liều được khuyến cáo ở người, dựa trên tính toán và so sánh diện tích bề mặt cơ thể.

*Lưu ý:

Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ

Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com

6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:

6.1. Danh mục tá dược:

Tá dược: Microcrystalline cellulose 102, Sodium starch glycolate, Colloidal silicon dioxide, Magnesium stearate, Hypromellose 606, Polyethylene glycol 6000, Talc, Titan dioxide, Yellow iron oxide.

6.2. Tương kỵ :

Không áp dụng.

6.3. Bảo quản:

Bảo quản ở nhiệt độ phòng, không quá 30 °C, tránh ẩm.

6.4. Thông tin khác :

Chưa có thông tin.

6.5 Tài liệu tham khảo:

HDSD Thuốc SaVi Abacavir 300 do Công ty cổ phần dược phẩm SAVI (Savipharm J.S.C). đăng ký (2013).

Ngân hàng dữ liệu ngành Dược.

7. Người đăng tải /Tác giả:

Bài viết được sưu tầm hoặc viết bởi: Bác sĩ nhi khoa – Đỗ Mỹ Linh.

Kiểm duyệt , hiệu đính và đăng tải: PHARMOG TEAM