1. Tên hoạt chất và biệt dược:
Hoạt chất : Epoetin alfa
Phân loại: Thuốc tác động trên máu và hệ thống tạo máu. Nhóm tạo máu
Nhóm pháp lý: Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)
Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): B03XA01.
Brand name: EPREX.
Hãng sản xuất : Janssen-Cilag
2. Dạng bào chế – Hàm lượng:
Dạng thuốc và hàm lượng
Dung dịch tiêm: ống tiêm sử dụng một lần, chứa sẵn thuốc 0,3mL, 0,4mL, 0,5mL hoặc 1mL x hộp 6 ống.
Mỗi ống 0,5mL: Epoetin alfa 1.000IU hoặc 2.000IU.
Mỗi ống 0,3mL: Epoetin alfa 3.000IU.
Mỗi ống 0,4mL: Epoetin alfa 4.000IU.
Mỗi ống 1mL: Epoetin alfa 10.000IU.
Thuốc tham khảo:
EPREX 4,000 IU/mL | ||
Mỗi ml dung dịch trong bơm tiêm đóng sẵn có chứa: | ||
Epoetin alfa | …………………………. | 4,000 IU |
Tá dược | …………………………. | vừa đủ (Xem mục 6.1) |
3. Video by Pharmog:
[VIDEO DƯỢC LÝ]
————————————————
► Kịch Bản: PharmogTeam
► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog
► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/
► Group : Hội những người mê dược lý
► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/
► Website: pharmog.com
4. Ứng dụng lâm sàng:
4.1. Chỉ định:
Điều trị thiếu máu do suy thận mạn ở bệnh nhân nhi và người lớn thẩm phân máu, thẩm phân phúc mạc.
Điều trị thiếu máu ở bệnh nhân thiếu máu nặng do thận đi kèm với các triệu chứng lâm sàng ở người lớn suy thận chưa từng thẩm phân máu.
Điều trị thiếu máu và giảm nhu cầu truyền máu ở bệnh nhân người lớn ung thư không phải dạng tủy bào đang được hoá trị liệu.
Điều trị thiếu máu ở các bệnh nhân nhiễm HIV đang được điều trị bằng zidovudin có mức erythropoietin nội sinh ≤ 500 mU/mL.
Tạo thuận lợi cho việc lấy máu tự thân trong chương trình gửi máu trước và giảm nguy cơ của việc truyền máu dị thân ở những bệnh nhân hematocrit 33-39%, những bệnh nhân này đã được lên chương trình cho một cuộc phẫu thuật lớn có chọn lọc và dự kiến cần nhiều máu hơn lượng máu mà họ có thể có được thông qua kỹ thuật lấy máu tự thân không sử dụng epoetin alfa.
Epoetin alfa được chỉ định dùng cho bệnh nhân người lớn thiếu máu nhẹ đến trung bình (10 g/dL < hemoglobin ≤ 13 g/dL) được lên chương trình cho một cuộc phẫu thuật có chọn lọc với dự kiến mất máu trung bình (2-4 đơn vị hoặc 900 đến 1800 mL) để giảm nguy cơ của việc truyền máu dị thân và tăng cường phục hồi erythropoietin.
4.2. Liều dùng – Cách dùng:
Cách dùng :.
Epoetin alfa có thể được chỉ định tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Đối với bệnh nhân suy thận mạn bao gồm bệnh thận giai đoạn cuối, chỉ nên dùng đường tiêm tĩnh mạch.
Cũng như các thuốc dùng đường tiêm khác, dung dịch tiêm phải được kiểm tra về các tiểu phân và sự biến màu trước khi tiêm. Không được lắc, vì lắc có thể làm biến tính glycoprotein làm bất hoạt thuốc.
Epoetin alfa ở dạng ống tiêm sử dụng 1 lần không chứa chất bảo quản. Không được tái sử dụng ống tiêm. Bỏ những phần không sử dụng.
a. Tiêm tĩnh mạch
Epoetin alfa nên được tiêm ít nhất trên 1 phút đến 5 phút, tùy thuộc vào tổng liều. Nên tiêm chậm trên bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng giả cúm khi điều trị.
Ở bệnh nhân thẩm phân máu, nên tiêm thuốc một lần trong suốt quá trình thẩm phân thông qua cửa tĩnh mạch thích hợp trên đường thẩm phân. Ngoài ra, có thể tiêm qua kim truyền ngay khi kết thúc thẩm phân, sau đó dùng 10 mL nước muối đẳng trương để rửa ống và đảm bảo thuốc được tiêm hoàn toàn vào tuần hoàn chung.
Epoetin alfa không được chỉ định truyền tĩnh mạch hoặc pha trộn với các thuốc khác.
b. Tiêm dưới da
Thể tích tối đa tại nơi tiêm là 1 mL. Cần phải tiêm nhiều hơn một nơi nếu thể tích tiêm lớn hơn.
Nên tiêm ở chân tay hoặc thành bụng trước.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
Sản phẩm chỉ sử dụng 1 lần.
Tự tiêm EPREX dưới da
Lúc bắt đầu điều trị, EPREX có thể được tiêm bởi nhân viên y tế. Tuy nhiên, bác sĩ có thể quyết định bệnh nhân phải học cách tự tiêm EPREX dưới da cho chính mình. Bệnh nhân sẽ được huấn luyện thích hợp để làm việc này. Bệnh nhân không nên cố gắng tự tiêm trong bất kỳ trường hợp nào trừ khi đã được huấn luyện.
Nếu EPREX được tiêm dưới da, một lần tiêm thường không quá 1 mL.
EPREX chỉ dùng một mình và không được trộn lẫn với các dung dịch khác để tiêm.
Không lắc lọ thuốc hoặc ống tiêm có chứa thuốc EPREX. Việc lắc mạnh và kéo dài có thể làm hỏng sản phẩm. Đừng sử dụng nếu sản phẩm đã bị lắc mạnh.
Cách tự tiêm với ống tiêm chứa sẵn thuốc
Ống tiêm chứa sẵn thuốc được lắp dụng cụ bảo vệ kim tiêm PROTECS giúp ngăn ngừa bị thương do kim đâm sau khi sử dụng. Thông tin này được ghi trên vỏ hộp.
– xem Hình 2.
Lấy ống tiêm ra khỏi tủ lạnh. Dung dịch cần để đến nhiệt độ phòng. Điều này thường mất khoảng 15-30 phút. Không tháo nắp phủ trên kim tiêm trong khi để nó đạt tới nhiệt độ phòng.
Kiểm tra ống tiêm, để đảm bảo đúng liều, không hết hạn sử dụng, không bị hư hại và dung dịch trong suốt, không bị đông.
Chọn vị trí tiêm. Các vị trí tiêm tốt là mặt trên của đùi và quanh bụng nhưng tránh xa vùng rốn. Thay đổi vị trí tiêm mỗi ngày.
Rửa sạch tay. Sử dụng bông sát trùng vùng tiêm, để tránh nhiễm trùng.
Giữ ống tiêm chứa sẵn thuốc bằng thân ống tiêm cùng với kim tiêm đã được phủ hướng lên phía trên.
Không giữ đầu pittông, pittông, cánh bảo vệ kim tiêm hoặc nút phủ kim tiêm.
Không kéo ngược pittông bất kể khi nào.
Không tháo nút phủ kim tiêm từ ống tiêm chứa sẵn thuốc cho tới khi sẵn sàng tiêm EPREX.
Tháo vỏ ống tiêm bằng cách giữ thân ống và kéo vỏ ống tiêm cẩn thận và không vặn xoắn. Không đẩy pittông, chạm vào kim tiêm hay lắc ống tiêm.
Không chạm vào các kẹp hoạt hoá kim tiêm (như đã chỉ ra bởi dấu hoa thị * trong hình 1) để phòng tránh sự phủ kim tiêm sớm.
Tạo nếp gấp da giữa ngón tay cái và ngón trỏ. Đừng siết chặt nếp gấp này.
Ấn đầu kim tiêm sâu vào da. Bác sĩ hoặc y tá sẽ chỉ cách cho bệnh nhân.
Dùng ngón cái đẩy pittông cho đến khi bơm hết dung dịch. Giữ vùng nếp gấp da đã kẹp, đẩy pittông chậm và đều đặn. Ống bảo vệ kim tiêm PROTECS sẽ không hoạt động ngoại trừ thuốc được tiêm hoàn toàn. Có thể nghe tiếng cạch khi kim tiêm có nút bảo vệ PROTECSTM được hoạt hóa.
Khi pittông được đẩy hết, rút kim tiêm ra và thả lỏng vùng nếp gấp da.
Thả chậm ngón cái ra khỏi pittông. Cho phép ống tiêm di chuyển lên cho đến khi toàn bộ kim tiêm được bao phủ bởi ống bảo vệ kim tiêm.
Khi kim tiêm đã được kéo ra khỏi da, có thể có một chút máu tại nơi tiêm. Điều này là bình thường. Sau khi tiêm, bệnh nhân có thể ấn mạnh bông sát khuẩn lên vùng tiêm trong vài giây.
Bỏ ống tiêm đã sử dụng vào thùng chứa an toàn.
Chỉ dùng một liều EPREX từ mỗi ống tiêm. Nếu vẫn còn dung dịch trong ống sau khi tiêm, ống tiêm nên được hủy bỏ một cách thích hợp, không tái sử dụng.
Nên làm gì nếu quên sử dụng EPREX?
Tiêm liều EPREX tiếp theo ngay khi nhớ. Nếu nhớ ra trong cùng một ngày với liều kế tiếp, bỏ qua liều đã quên và tiếp tục tiêm theo liệu trình bình thường. Đừng tiêm gấp đôi liều.
Liều dùng:
Bệnh nhân suy thận mạn
Chỉ nên dùng đường tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính.
Nồng độ hemoglobin đích nên là 10-12 g/dL (6,2-7,5 mmol/L) ở người lớn và 9,5-11 g/dL (5,9-6,8 mmol/L) ở trẻ em.
Ở bệnh nhân suy thận mạn nên duy trì nồng độ hemoglobin không vượt quá giới hạn trên của khoảng nồng độ heamoglobin (xem phần Cảnh báo – Bệnh nhân suy thận).
Khi thay đổi đường tiêm, nên khởi đầu cùng một liều và sau đó điều chỉnh để đạt nồng độ hemoglobin trong khoảng nồng độ giới hạn. Trong giai đoạn chỉnh liều, nên tăng liều epoetin alfa nếu hemoglobin tăng < 1 g/dL (0,62 mmol/L) mỗi tháng.
Thông thường ghi nhận mức gia tăng hemoglobin có ý nghĩa lâm sàng sau hơn 2 tuần và có thể đến 6-10 tuần ở một vài bệnh nhân.
Khi nồng độ hemoglobin trong khoảng giới hạn, nên giảm liều 25 IU/kg/liều để tránh tình trạng vượt quá khoảng giới hạn. Nên giảm liều khi hemoglobin đạt được 12 g/dL.
Có thể giảm liều bằng cách bỏ đi một trong các liều trong mỗi tuần hoặc bằng cách giảm số lượng thuốc mỗi liều.
a. Bệnh nhân người lớn đang chạy thận nhân tạo
Ở những bệnh nhân chạy thận nhân tạo, chỉ nên sử dụng đường tiêm tĩnh mạch.
Việc điều trị được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn điều chỉnh
50 IU/kg ba lần mỗi tuần.
Khi cần thiết, việc điều chỉnh liều nên tăng 25 IU/kg ba lần mỗi tuần trong khoảng thời gian ít nhất 4 tuần cho đến khi đạt đến phạm vi nồng độ hemoglobin (10-12 g/dL [6,2-7,5 mmol/L]).
Giai đoạn duy trì
Điều chỉnh liều để duy trì các giá trị hemoglobin ở nồng độ mong muốn: Hb từ 10 đến 12 g/dL (6,2-7,5 mmol/L).
Liều duy trì nên được cá thể hóa cho mỗi bệnh nhân suy thận mạn. Tổng liều hàng tuần được đề nghị là từ 75 đến 300 IU/kg.
Dữ liệu hiện có cho thấy bệnh nhân có hemoglobin ban đầu (< 6 g/dL hoặc < 3,7 mmol/L) có thể cần dùng liều duy trì cao hơn so với những bệnh nhân có hemoglobin ban đầu (> 8 g/dL hoặc > 5 mmol/L).
b. Bệnh nhân nhi đang chạy thận nhân tạo
Việc điều trị được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn điều chỉnh
50 IU/kg ba lần mỗi tuần bằng đường tĩnh mạch.
Khi cần thiết, điều chỉnh liều nên được thực hiện tăng 25 IU/kg ba lần mỗi tuần trong khoảng thời gian ít nhất 4 tuần cho đến khi đạt được khoảng nồng độ hemoglobin (9,5-11 g/dL [5,9-6,8 mmol/L]).
Giai đoạn duy trì
Nên điều chỉnh liều dùng thích hợp để duy trì nồng độ hemoglobin trong phạm vi mong muốn giữa 9,5 g/dL đến 11 g/dL (5,9-6,8 mmol/L).
Nói chung, trẻ em dưới 30kg cần liều duy trì cao hơn so với trẻ em trên 30kg và người lớn. Ví dụ, liều duy trì sau đây đã được quan sát thấy trong các thử nghiệm lâm sàng sau 6 tháng điều trị.
– xem Bảng 5.
Dữ liệu có sẵn cho thấy bệnh nhân có hemoglobin ban đầu là rất thấp (hemoglobin < 6,8 g/dL [4,2 mmol/L]) có thể cần dùng liều duy trì cao hơn so với bệnh nhân có hemoglobin ban đầu là cao hơn (hemoglobin < 6,8 g/dL [4,2 mmol/L]).
c. Bệnh nhân người lớn thẩm phân phúc mạc
Ở những bệnh nhân thẩm phân phúc mạc, chỉ nên dùng đường tiêm tĩnh mạch.
Việc điều trị được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn điều chỉnh
50 IU/kg hai lần mỗi tuần.
Khi cần thiết, điều chỉnh liều nên được thực hiện tăng 25 IU/kg hai lần mỗi tuần trong khoảng thời gian ít nhất 4 tuần cho đến khi đạt được phạm vi nồng độ hemoglobin (10-12 g/dL [6,2-7,5 mmol/L]).
Giai đoạn duy trì
Liều thông thường để duy trì phạm vi nồng độ hemoglobin (10-12 g/dL [6,2- 7,5 mmol/L]) là từ 25 đến 50 IU/kg hai lần mỗi tuần chia hai lần tiêm bằng nhau.
d. Bệnh nhân nhi thẩm phân phúc mạc
Việc điều trị được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn điều chỉnh
50 IU/kg ba lần mỗi tuần bằng đường tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da.
Khi cần thiết, điều chỉnh liều nên được thực hiện tăng 25 IU/kg ba lần mỗi tuần trong khoảng thời gian ít nhất 4 tuần cho đến khi đạt được phạm vi nồng độ hemoglobin (9,5-11 g/dL [5,90-6,83 mmol/L]).
Giai đoạn duy trì: Nói chung, trẻ em < 30kg cần liều duy trì cao hơn so với trẻ em > 30kg và người lớn. Ví dụ, liều duy trì sau đây đã được quan sát thấy trong các thử nghiệm lâm sàng sau 6 tháng điều trị.
– xem Bảng 6.
Dữ liệu có sẵn cho thấy bệnh nhân có hemoglobin ban đầu < 6,8 g/dL (4,2 mmol/L) có thể đòi hỏi liều duy trì cao hơn so với bệnh nhân có hemoglobin ban đầu > 6,8 g/dL (4,2 mmol/L).
e. Bệnh nhân người lớn trước lọc thận [bệnh nhân người lớn suy thận giai đoạn cuối]
Ở bệnh nhân suy thận chưa lọc thận, chỉ nên dùng đường tiêm tĩnh mạch. Việc điều trị được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn điều chỉnh
50 IU/kg ba lần mỗi tuần.
Khi cần thiết, điều chỉnh liều nên được thực hiện tăng 25 IU/kg, ba lần mỗi tuần trong khoảng thời gian ít nhất 4 tuần cho đến khi đạt được phạm vi nồng độ hemoglobin (10-12 g/dL [6,2-7,5 mmol/L]).
Giai đoạn duy trì
Liều thông thường để duy trì phạm vi nồng độ hemoglobin là từ 17 đến 33 IU/kg ba lần mỗi tuần.
Liều tối đa không được vượt quá 200 IU/kg 3 lần mỗi tuần.
Trong giai đoạn duy trì, EPREX được sử dụng 3 lần một tuần, và trong trường hợp tiêm dưới da, sử dụng 1 lần mỗi tuần hoặc 1 lần mỗi 2 tuần.
Nên điều chỉnh liều và khoảng liều thích hợp để duy trì các giá trị hemoglobin ở nồng độ mong muốn: Hb từ 10 đến 12 g/dL (6,2-7,5 mmol/L). Mở rộng khoảng liều có thể yêu cầu tăng liều.
Liều tối đa không được vượt quá 150 IU/kg 3 lần mỗi tuần, 240 IU/kg (lên đến tối đa là 20.000 IU) một lần mỗi tuần, hoặc 480 IU/kg (lên đến tối đa là 40.000 IU) mỗi 2 tuần một lần.
Bệnh nhân ung thư
a. Ở bệnh nhân ung thư người lớn
Nên dùng đường tiêm dưới da.
Khoảng nồng độ Hb nên là 10 đến 12 g/dL (7,5 mmol/L) ở nam và nữ và không nên vượt quá khoảng này.
Nên tiếp tục điều trị epoetin alfa thêm một tháng sau khi kết thúc hóa trị liệu. Tuy nhiên, nhu cầu điều trị tiếp tục epoetin alfa nên được tái đánh giá định kỳ.
Liều khởi đầu điều trị thiếu máu nên là 150 IU/kg, 3 lần/tuần.
Nếu sau 4 tuần điều trị ở liều khởi đầu, Hb tăng tối thiểu khoảng 1 g/dL (0,6 mmol/L) [hoặc hồng cầu lưới tăng ≥ 40.000 tế bào/μL so với trước điều trị], liều điều trị nên được duy trì.
Nếu sau 4 tuần điều trị ở liều khởi đầu, Hb không tăng ≥ 1g/dL (0,6 mmol/L) [và hồng cầu lưới không tăng ≥ 40.000 tế bào/μL so với trước điều trị], khi không thực hiện truyền hồng cầu, nên tăng liều đến 300 IU/kg, 3 lần một tuần hoặc 60.000 IU mỗi tuần.
Nếu sau khi điều trị thêm 4 tuần với liều 300 IU/kg, 3 lần một tuần hoặc 60.000 IU mỗi tuần, Hb tăng ≥ 1g/dL (≥ 0,6 mmol/L), [hoặc hồng cầu lưới tăng ≥ 40.000 tế bào/μL), liều nên được duy trì không đổi.
Nếu sau khi điều trị thêm 4 tuần với liều 300 IU/kg, 3 lần/tuần hoặc 60.000 IU mỗi tuần, Hb tăng < 1 g/dL (0,6 mmol/L) [và hồng cầu lưới tăng < 40.000 tế bào/μL so với trước điều trị] thì có lẽ bệnh nhân không đáp ứng với thuốc và nên ngừng điều trị.
Phác đồ liều khuyến cáo được mô tả theo sơ đồ sau:
– xem Hình 1.
Nên tránh gia tăng Hb trên 1 g/dL (0,6 mmol/L) mỗi 2 tuần hoặc trên 2 g/dL (1,25 mmol/L) mỗi tháng hoặc nồng độ Hb > 12 g/dL (> 8,1 mmol/L). Nếu Hb đang gia tăng > 1 g/dL (0,6 mmol/L) mỗi 2 tuần hoặc > 2 g/dL (1,25 mmol/L) mỗi tháng hoặc Hb đạt khoảng 12 g/dL (7,5 mmol/L), thì nên giảm liều epoetin alfa khoảng 25-50% dựa vào tốc độ tăng Hb. Nếu Hb vượt quá 12 g/dL (7,5 mmol/L), không điều trị cho đến khi Hb giảm dưới 12 g/dL (7,5 mmol/L) và sau đó bắt đầu lại với trị liệu bằng epoetin alfa ở liều thấp hơn liều ban đầu 25%.
b. Ở bệnh nhi ung thư
Những tài liệu đã xuất bản báo cáo việc sử dụng thuốc ở bệnh nhi ung thư từ 6 tháng đến 18 tuổi, đã điều trị epoetin alfa với liều 25-300 IU/kg bằng đường tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch, 3 đến 7 lần mỗi tuần, cho thấy có sự tăng Hb và giảm nhu cầu truyền máu.
Bệnh nhân nhiễm HIV, được điều trị zidovudin
Bệnh nhân người lớn nhiễm HIV, được điều trị zidovudin
Trước khi bắt đầu epoetin alfa, nồng độ erythropoietin nội sinh trong huyết thanh nên được xác định trước khi truyền. Theo nghiên cứu, bệnh nhân có nồng độ erythropoietin nội sinh trong huyết thanh > 500 mU/mL sẽ không đáp ứng với điều trị bằng epoetin alfa.
Việc điều trị được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn điều chỉnh
100 IU/kg x 3 lần/tuần trong 8 tuần bằng đường tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch.
Nếu đáp ứng không như mong muốn (ví dụ như giảm nhu cầu cần truyền máu hoặc gia tăng Hb) sau 8 tuần điều trị, thì có thể tăng liều epoetin alfa, liều epoetin alfa có thể tăng thêm 50-100 IU/kg x 3 lần/tuần trong khoảng thời gian ít nhất 4 tuần. Nếu bệnh nhân vẫn không đáp ứng như mong muốn với epoetin alfa ở liều 300 IU/kg x 3 lần/tuần thì được xem như không đáp ứng ở liều cao hơn.
Giai đoạn duy trì
Sau khi đã đạt được đáp ứng như mong muốn, liều dùng nên được điều chỉnh để duy trì hematocrit giữa 30-35%, dựa trên các yếu tố như sự thay đổi liều zidovudin, sự hiện diện của nhiễm trùng tái phát hoặc các giai đoạn viêm nhiễm. Nếu hematocrit vượt quá 40%, nên tạm ngừng điều trị cho tới khi hematocrit giảm đến 36%. Khi bắt đầu điều trị lại, nên giảm 25% liều và sau đó chỉnh liều để duy trì mức hematocrit mong muốn.
Ở bệnh nhân nhiễm HIV điều trị bằng zidovudin, nồng độ Hb không nên vượt quá 12 g/dL (7,5 mmol/L).
Bệnh nhân người lớn phẫu thuật trong chương trình tiền hiến máu tự thân
Nên sử dụng epoetin alfa bằng đường tiêm tĩnh mạch. Epoetin alfa nên được sử dụng sau khi hoàn tất mỗi kỳ lấy máu tự thân.
Các bệnh nhân thiếu máu nhẹ (có hematocrit 33-39% và/hoặc Hb 10-13 g/dL) cần dự trữ [> 4 đơn vị] máu thì liều epoetin alfa sử dụng là 600 IU/kg, 2 lần/tuần trong vòng 3 tuần trước khi phẫu thuật.
Đối với những bệnh nhân có nhu cầu kích thích tạo máu ở mức độ ít hơn, liều sử dụng 150-300 IU/kg, hai lần mỗi tuần cho thấy làm tăng hiệu quả tiền hiến máu tự thân và làm giảm sự sụt giảm hematocrit sau đó.
Bệnh nhân người lớn trong giai đoạn chu phẫu (không hiến máu tự thân)
Nên sử dụng epoetin alfa bằng đường tiêm dưới da.
Chế độ liều dùng khuyến cáo của epoetin alfa là 600 IU/kg mỗi tuần, trong 3 tuần (vào các ngày 21, 14 và 7) trước phẫu thuật và vào ngày phẫu thuật.
Trong những trường hợp cần giảm thời gian trước khi phẫu thuật xuống dưới ba tuần, chế độ liều dùng khuyến cáo là 300 IU/kg trong 10 ngày liên tiếp trước phẫu thuật, vào ngày phẫu thuật và tiếp tục lên đến 4 ngày sau phẫu thuật. Liều 300 IU/kg/ngày được khuyến cáo nếu mức Hb < 13 g/dL (8,1 mmol/L). Nếu mức Hb đạt 15 g/dL hoặc cao hơn, phải ngừng sử dụng epoetin alfa và ngừng cả các liều tiếp theo.
4.3. Chống chỉ định:
Quá mẫn cảm với hoạt chất hoặc với bất cứ tá dược nào.
Bệnh nhân đã có tiến triển chứng bất sản nguyên hồng cầu đơn thuần (PRCA) sau khi điều trị bằng các chế phẩm chứa erythropoietin (xem Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý).
Tăng huyết áp không kiểm soát được.
Phải tôn trọng các chống chỉ định của chương trình hiến máu tự thân ở những bệnh nhân đang được điều trị hỗ trợ với epoetin alfa.
Chống chỉ định dùng epoetin alfa cho những bệnh nhân trong chương trình phẫu thuật chỉnh hình lớn có chọn lọc và không đang tham gia chương trình hiến máu tự thân mà bị bệnh mạch vành trầm trọng, bệnh động mạch ngoại vi, bệnh động mạch cảnh, hoặc bệnh mạch máu não, bao gồm những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não gần đây.
Bệnh nhân phẫu thuật không được phòng ngừa chống huyết khối đầy đủ.
4.4 Thận trọng:
Thuốc này chỉ dùng theo đơn của bác sỹ.
1. Tổng quát
Tất cả bệnh nhân dùng epoetin alfa cần được theo dõi và kiểm soát huyết áp chặt chẽ. Ở bệnh nhân cao huyết áp không điều trị, điều trị không đầy đủ hay kiểm soát kém thì cần phải thận trọng khi sử dụng epoetin alfa.
Có thể cần thiết để bắt đầu hoặc tăng cường điều trị cao huyết áp trong khi dùng liệu pháp epoetin alfa. Nếu không kiểm soát được huyết áp, nên ngừng sử dụng epoetin alfa.
Thận trọng đối với bệnh nhân động kinh, có tiền sử co giật, hoặc các tình trạng y khoa có thể làm bệnh nhân dễ bị co giật như nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương và di căn não.
Epoetin alfa nên được dùng thận trọng khi bệnh nhân suy gan mạn. Tính an toàn của epoetin alfa chưa được chứng minh ở những bệnh nhân có rối loạn chức năng gan. Do bị giảm chuyển hóa, những bệnh nhân rối loạn chức năng gan có thể có gia tăng sự tổng hợp hồng cầu khi dùng epoetin alfa.
Tăng tần suất của các biến cố huyết khối mạch máu đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng các tác nhân kích thích sinh hồng cầu (ESAs: erythropoiesis-stimulating agents) (xem phần Tác dụng ngoại ý). Các biến cố này bao gồm huyết khối và thuyên tắc động mạch và tĩnh mạch (kể cả một số biến cố với kết cục tử vong), như huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc phổi, huyết khối võng mạc, và nhồi máu cơ tim. Ngoài ra, các tai biến mạch máu não (bao gồm nhồi máu não, xuất huyết não, và cơn thiếu máu não thoáng qua) cũng đã được báo cáo.
Các nguy cơ bị biến cố huyết khối mạch máu đã được báo cáo phải được cân nhắc thận trọng với các lợi ích từ việc điều trị với epoetin alfa, đặc biệt là ở những bệnh nhân có sẵn các yếu tố nguy cơ.
Ở tất cả các bệnh nhân, nồng độ Hb nên được theo dõi chặt chẽ do nguy cơ cao về huyết khối nghẽn mạch và kết cục có thể gây tử vong khi bệnh nhân được điều trị ở nồng độ Hb vượt quá phạm vi cho phép chỉ định điều trị.
Độ an toàn và hiệu quả của epoetin alfa không được chứng minh ở những bệnh nhân đang có bệnh về máu (như: thiếu máu huyết tán, thiếu máu hồng cầu liềm, thalassemia).
Trong khi điều trị với epoetin alfa có thể có sự gia tăng vừa phải số lượng tiểu cầu phụ thuộc vào liều dùng, trong giới hạn bình thường. Tình trạng này sẽ thoái lui trong suốt đợt trị liệu. Thêm vào đó, sự tăng tạo tiểu cầu trên mức giới hạn bình thường đã được ghi nhận. Nên theo dõi thường xuyên số lượng tiểu cầu trong suốt 8 tuần đầu điều trị.
Các nguyên nhân khác của thiếu máu (thiếu sắt, thiếu folat hay Vitamin B12, nhiễm độc nhôm, nhiễm trùng hoặc viêm, mất máu, tán huyết hoặc xơ hóa tủy xương do bất kỳ nguyên nhân nào) nên được đánh giá và điều trị trước khi khởi đầu điều trị với epoetin alfa và khi quyết định tăng liều. Trong hầu hết các trường hợp, các nồng độ ferritin trong huyết thanh giảm đồng thời với sự gia tăng tỉ lệ hồng cầu trong máu toàn phần. Để đảm bảo đáp ứng tối ưu với epoetin alfa, phải đảm bảo dự trữ sắt đầy đủ và nên bổ sung sắt nếu cần thiết:
Đối với bệnh nhân suy thận mạn, khuyến cáo bổ sung sắt (sắt nguyên tố 200-300 mg/ngày đường uống cho người lớn và 100-200 mg/ngày đường uống cho trẻ em) nếu nồng độ ferritin huyết thanh dưới 100 ng/mL.
Đối với bệnh nhân ung thư, khuyến cáo bổ sung sắt (sắt nguyên tố 200-300 mg/ngày đường uống) nếu độ bão hòa transferrin dưới 20%.
Đối với bệnh nhân trong chương trình tiền hiến máu tự thân, bổ sung sắt (sắt nguyên tố 200 mg/ngày đường uống) nên được cho nhiều tuần trước khi thực hiện hiến máu tự thân để đạt được nồng độ sắt dự trữ cao trước khi bắt đầu điều trị với epoetin alfa và trong suốt quá trình điều trị với epoetin alfa.
Đối với những bệnh nhân đã lên chương trình phẫu thuật chỉnh hình lớn có chọn lọc, bổ sung sắt (sắt nguyên tố 200 mg/ngày đường uống) nên được cho trong suốt quá trình điều trị với epoetin alfa. Nếu có thể được, việc bổ sung sắt nên được bắt đầu trước khi điều trị với epoetin alfa để đạt được nồng độ sắt dự trữ thích hợp.
Rất hiếm gặp trường hợp rối loạn chuyển hóa porphyrin thể hiện từ đầu hay đợt kịch phát được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị với epoetin alfa. Epoetin alfa nên được dùng thận trọng ở những bệnh nhân rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Các thuốc kích thích sinh hồng cầu (ESA) không nhất thiết tương đương nhau. Do đó, cần lưu ý với bệnh nhân chỉ nên chuyển từ thuốc ESA này (ví dụ như Eprex) sang một thuốc ESA khác khi có sự cho phép của bác sĩ điều trị.
Bất sản nguyên hồng cầu
Chứng bất sản hồng cầu đơn thuần liên quan đến việc sử dụng các erythropoietin đã được ghi nhận với tỷ lệ rất hiếm gặp. PRCA xảy ra chủ yếu trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính sử dụng erythropoietin đường tiêm dưới da. Hội chứng này được mô tả bởi hiện tượng mất/giảm đột ngột hiệu quả của thuốc, tình trạng thiếu máu trầm trọng thêm, giảm hemoglobin (1-2 g/dL hoặc 0,62- 1,25 mmol/L mỗi tháng), số lượng hồng cầu lưới thấp (< 10 000 tế bào/mL) và sự có mặt kháng thể trung hòa kháng erythropoietin.
Cần theo dõi chặt chẽ đáp ứng của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Nếu hiệu quả bị giảm hoặc mất đột ngột, tình trạng thiếu máu trầm trọng thêm, cần đánh giá những nguyên nhân khác có thể gây hiện tượng không đáp ứng với thuốc như: thiếu hụt sắt, folat, vitamin B12; nhiễm độc nhôm, nhiễm khuẩn hoặc viêm, mất máu và thẩm tách máu. Nếu nghi ngờ bất sản hồng cầu đơn thuần (PRCA) và không phát hiện ra các nguyên nhân khác, cần ngừng dùng epoetin alpha, làm xét nghiệm kháng thể kháng erythropoietin và tuỷ xương đồ. Không nên chuyển sang các erythropoietin khác do kháng thể có khả năng phản ứng chéo giữa các erythropoietin. Cần loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây ra PRCA và áp dụng các biện pháp xử trí phù hợp.
Các trường hợp này cũng được ghi nhận là hiếm xảy ra khi sử dụng đồng thời các thuốc kích thích sinh hồng cầu (ESAs) ở bệnh nhân viêm gan C được điều trị với interferon và ribavirin. ESA không được phê duyệt trong việc điều trị thiếu máu đi kèm với viêm gan C.
Nếu nghi ngờ bất sản nguyên hồng cầu do kháng thể trung gian kháng erythropoietin, nên ngừng ngay điều trị bằng epoetin alfa. Không nên chuyển sang điều trị bằng ESA khác vì nguy cơ phản ứng chéo. Điều trị thích hợp như truyền máu khi được chỉ định.
Sử dụng trong lão khoa
Trong số 1051 bệnh nhân đưa vào trong 5 nghiên cứu lâm sàng của epoetin alfa để giảm việc truyền máu dị thân ở những bệnh nhân đang được phẫu thuật chọn lọc, 745 bệnh nhân sử dụng epoetin alfa và 306 sử dụng giả dược. Trong số 745 bệnh nhân sử dụng epoetin alfa, 432 bệnh nhân (58%) ở tuổi ≥ 65, trong đó 175 bệnh nhân (23%) ở tuổi ≥ 75. Nhìn chung không có sự khác biệt về độ an toàn hoặc hiệu quả được quan sát thấy giữa những bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân trẻ hơn. Liều chỉ định của epoetin alfa ở bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân trẻ hơn trong 4 nghiên cứu đang dùng thuốc theo chương trình ba lần mỗi tuần là tương tự nhau. Không có đủ bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu dùng chế độ liều hàng tuần để xác định liệu các nhu cầu về liều có khác nhau đối với chế độ điều trị này không.
Trong số 882 bệnh nhân được đưa vào trong 3 nghiên cứu ở bệnh nhân suy thận mạn đang lọc máu, 757 bệnh nhân sử dụng epoetin alfa và 125 bệnh nhân sử dụng giả dược. Trong 757 bệnh nhân sử dụng epoetin alfa, 361 bệnh nhân (47%) ở tuổi ≥ 65, trong đó 100 (13%) bệnh nhân ở tuổi ≥ 75. Không có sự khác biệt về độ an toàn hoặc hiệu quả giữa những bệnh nhân lớn tuổi và những bệnh nhân trẻ tuổi hơn. Chọn và điều chỉnh liều ở bệnh nhân lớn tuổi nên tùy theo từng người để đạt và duy trì mức giới hạn nồng độ hemoglobin (xem phần Liều lượng và Cách dùng).
Không đủ số lượng bệnh nhân tuổi ≥ 65 được đưa vào các nghiên cứu lâm sàng trong điều trị thiếu máu do suy thận mạn trước chạy thận, hóa trị liệu trong ung thư, hoặc điều trị nhiễm HIV bằng zidovudin để xác định có hay không sự đáp ứng khác nhau giữa người lớn tuổi và người trẻ hơn.
2. Bệnh nhân suy thận
Điều trị thiếu máu có triệu chứng ở bệnh nhân người lớn và trẻ em suy thận mạn
Ở những bệnh nhân suy thận mạn sử dụng epoetin alfa, nên đo nồng độ Hb đều đặn đến khi đạt mức ổn định và sau đó theo dõi định kỳ.
Ở những bệnh nhân suy thận mạn, để giảm tối thiểu nguy cơ tăng huyết áp, nên khống chế tốc độ tăng Hb khoảng 1 g/dL (0,62 mmol/L)/tháng và không nên vượt quá 2 g/dL/tháng. Nên giảm liều khi Hb đạt đến 12 g/dL.
Đối với bệnh nhân suy thận mạn, nồng độ Hb duy trì không nên vượt quá giới hạn trên của khoảng nồng độ Hb được nêu trong phần liều lượng và cách dùng. Nồng độ đích Hb 13g/dL hay cao hơn có thể kết hợp với nguy cơ cao của các biến cố về tim mạch, bao gồm tử vong.
Trên một số bệnh nhân khi kéo dài khoảng cách liều (lớn hơn một lần mỗi tuần) của epoetin alfa có thể không duy trì đủ nồng độ hemoglobin (xem phần Dược lực học) và có thể đòi hỏi tăng liều epoetin alfa. Nồng độ hemoglobin cần phải được theo dõi thường xuyên.
Những bệnh nhân suy thận mạn và đáp ứng hemoglobin không đủ khi điều trị với ESA có thể thậm chí có nguy cơ cao hơn về các biến cố tim mạch và tỉ lệ tử vong so với những bệnh nhân khác.
Dựa trên các thông tin có được đến thời điểm này, việc dùng epoetin alfa không làm tăng tiến triển của suy thận ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc máu.
Huyết khối ống dẫn đã xảy ra ở những bệnh nhân lọc máu, đặc biệt ở những người có khuynh hướng hạ huyết áp hoặc những người có biến chứng dò động tĩnh mạch (như hẹp, phình mạch, v.v.). Sửa chữa ống dẫn sớm và dự phòng huyết khối (ví dụ bằng acid acetylsalicylic) được khuyến cáo ở những bệnh nhân này.
Tăng kali máu đã được quan sát thấy ở một số ca riêng lẻ, mặc dù không xác định được nguyên nhân. Nên theo dõi nồng độ các chất điện giải trong huyết thanh ở bệnh nhân suy thận mạn. Nếu phát hiện tăng nồng độ kali huyết thanh, thì bên cạnh việc điều trị thích hợp cho tăng kali máu, nên cân nhắc ngừng dùng epoetin alfa cho đến khi nồng độ kali huyết thanh đã được điều chỉnh.
Do tăng thể tích hồng cầu, bệnh nhân thẩm phân máu điều trị epoetin alfa thường cần tăng liều heparin trong khi thẩm phân. Nếu quá trình kháng đông không tối ưu, tắc nghẽn hệ thống lọc máu có thể xảy ra.
Ở một số bệnh nhân nữ suy thận mạn, khi dùng epoetin alfa có thể gây có kinh nguyệt lại, do đó cần thảo luận về khả năng có thể có thai và đánh giá nhu cầu ngừa thai.
3. Bệnh nhân ung thư
Bệnh nhân ung thư điều trị bằng epoetin alfa nên đo lường mức độ Hb định kỳ cho đến khi đạt được mức ổn định và sau đó tiếp tục theo dõi định kỳ.
ESA là những yếu tố tăng trưởng mà chủ yếu kích thích sự tạo thành hồng cầu. Các thụ thể erythropoietin có thể được thể hiện trên bề mặt của nhiều loại tế bào khối u. Như với tất cả các yếu tố tăng trưởng, có mối lo ngại là ESA có thể kích thích sự phát triển của các khối u.
Trong các thử nghiệm lâm sàng có kiểm chứng, việc dùng epoetin alfa và những ESA khác đã cho thấy:
Giảm kiểm soát tại chỗ/vùng ở những bệnh nhân ung thư đầu và cổ tiến triển đang xạ trị khi dùng thuốc ESA để đạt hemoglobin đích lớn hơn 14 g/dL (8,7 mmol/L),
Làm giảm thời gian sống nói chung và tăng tử vong do bệnh tiến triển sau 4 tháng ở những bệnh nhân ung thư vú di căn đang hóa trị liệu, khi dùng thuốc ESA để đạt hemoglobin đích 12-14 g/dL (7,5-8,7 mmol/L),
Một thuốc ESA khác (darbepoietin alfa) làm tăng nguy cơ tử vong khi dùng để đạt hemoglobin đích 12 g/dL (7,5 mmol/L) ở những bệnh nhân có bệnh lý ác tính thể hoạt động không đang hóa trị hoặc xạ trị. ESAs không được chỉ định dùng ở những bệnh nhân này.
Với các thông tin trên, việc quyết định cho điều trị với erythropoietin tái tổ hợp nên dựa trên đánh giá lợi ích – nguy cơ với sự tham gia của từng bệnh nhân, và nên lưu ý đến bối cảnh lâm sàng chuyên biệt. Các yếu tố để xem xét khi đánh giá bao gồm: loại khối u và phân độ; mức độ thiếu máu; tuổi thọ trung bình; môi trường điều trị của bệnh nhân; và ý muốn của bệnh nhân (xem phần Dược lực học).
Ở những bệnh nhân ung thư đang hóa trị, sự trì hoãn 2-3 tuần giữa thời gian sử dụng ESA và sự xuất hiện tế bào hồng cầu tạo ra do erythropoietin nên được tính đến để đánh giá liệu điều trị bằng Epoetin alfa có thích hợp hay không (đặc biệt ở những bệnh nhân có nguy cơ truyền máu).
4. Bệnh nhân nhiễm HIV: Nên xem xét và đánh giá các nguyên nhân gây thiếu máu khác như thiếu máu do thiếu sắt nếu bệnh nhân nhiễm HIV kém đáp ứng hoặc kém duy trì đáp ứng với epoetin alfa.
5. Bệnh nhân người lớn phẫu thuật trong chương trình tiền hiến máu tự thân: Tất cả các cảnh báo và thận trọng đặc biệt của chương trình hiến máu tự thân, đặc biệt là sự thay thế thể tích máu thường qui nên được tuân thủ đối với bệnh nhân dùng epoetin alpha.
6. Bệnh nhân người lớn trong giai đoạn chu phẫu (không hiến máu tự thân)
Thực hành quản lý máu tốt luôn luôn nên dùng trong giai đoạn chu phẫu. Những bệnh nhân đã được lên lịch phẫu thuật chỉnh hình lớn có chọn lọc nên được điều trị dự phòng chống huyết khối một cách đầy đủ vì huyết khối và các biến cố mạch máu có thể xảy ra ở bệnh nhân phẫu thuật, đặc biệt đối với các bệnh nhân đã có sẵn bệnh tim mạch. Ngoài ra, cần phải đặc biệt thận trọng ở những bệnh nhân có nguy cơ gây huyết khối tĩnh mạch sâu. Hơn nữa, ở những bệnh nhân có Hb ban đầu > 13 g/dL (8,1 mmol/L), không thể loại trừ khả năng liệu pháp Epoetin alpha có thể làm tăng nguy cơ biến cố mạch máu/huyết khối hậu phẫu. Vì vậy không nên dùng cho bệnh nhân có Hb ban đầu >13 g/dL (8,1 mmol/L).
Không khuyến cáo dùng epoetin alfa ở bệnh nhân chu phẫu có Hb ban đầu >13 g/dL (8,1 mmol/L).
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.
Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc: Không có nghiên cứu nào về tác động của epoetin alfa trên khả năng lái xe và vận hành máy móc.
4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:
Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: B3
US FDA pregnancy category: NA
Thời kỳ mang thai:
Trong các nghiên cứu trên động vật, với liều dùng hàng tuần cao gấp 20 lần liều khuyến cáo hàng tuần trên người, epoetin alfa làm giảm trọng lượng thai, làm chậm sự cốt hoá xương và làm tăng tỉ lệ bào thai tử vong. Những thay đổi này được giải thích là thứ phát do sự giảm lên cân của mẹ.
Không có các nghiên cứu được kiểm soát và đầy đủ ở phụ nữ mang thai.
Epoetin alfa chỉ nên dùng trong thai kỳ nếu khả năng có ích vượt hơn nguy cơ có thể có đối với bào thai (xem ”Độc tính trên sinh sản”).
Thời kỳ cho con bú:
Erythropoietin có hiện diện trong sữa người. Tuy nhiên, vẫn chưa biết được epoetin alfa có được phân bố trong sữa người hay không. Thận trọng khi dùng epoetin alpha đối với phụ nữ cho con bú.
Không khuyến cáo dùng EPREX ở bệnh nhân phẫu thuật đang có thai hay cho con bú tham gia chương trình tiền hiến máu tự thân.
4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):
Tóm tắt dữ liệu về tính an toàn
Phản ứng có hại của thuốc thường gặp nhất trong khi điều trị bằng epoetin alfa là gây tăng huyết áp phụ thuộc liều hoặc làm nặng thêm tình trạng tăng huyết áp hiện có. Nên theo dõi huyết áp, đặc biệt là khi bắt đầu điều trị.
Những phản ứng có hại thường xảy ra nhất được quan sát trong các thử nghiệm lâm sàng của epoetin alfa là tiêu chảy, buồn nôn, nôn, sốt và đau đầu. Chứng bệnh giống cúm có thể xảy ra đặc biệt là khi bắt đầu điều trị.
Xung huyết gây tắc nghẽn đường hô hấp, trong đó bao gồm xung huyết gây tắc nghẽn đường hô hấp trên, nghẹt mũi và viêm mũi họng, đã được báo cáo trong các nghiên cứu với kéo dài khoảng cách liều ở bệnh nhân người lớn bị suy thận chưa chạy thận nhân tạo.
Tăng tần suất các biến cố huyết khối mạch máu đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng ESA (xem phần Cảnh báo).
Các phản ứng quá mẫn, bao gồm các trường hợp nổi mẩn (bao gồm mày đay), phản ứng phản vệ và phù mạch đã được ghi nhận.
Cơn tăng huyết áp kịch phát với bệnh lý não và co giật, mà cần được bác sỹ quan tâm và điều trị tích cực ngay lập tức, cũng đã từng xảy ra trong quá trình điều trị bằng epoetin alfa ở những bệnh nhân có huyết áp thấp hoặc bình thường trước đó. Cần lưu ý đặc biệt đến những cơn nhức đầu kiểu đau nửa đầu xuất hiện thình lình dữ dội vì có thể là dấu hiệu cảnh báo.
Bảng trình bày các phản ứng bất lợi
Trong số tổng cộng 3559 bệnh nhân trong 27 thử nghiệm mù đôi, phân bố ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dược hoặc chăm sóc chuẩn, dữ liệu an toàn tổng thể của epoetin alfa đã được đánh giá trên 2136 bệnh nhân thiếu máu. Bao gồm trong đó là 228 bệnh nhân suy thận mạn được điều trị với epoetin alfa trong 4 nghiên cứu ở bệnh suy thận mạn (2 nghiên cứu trong giai đoạn tiền lọc máu [N=131 bệnh nhân suy thận mạn đã dùng thuốc nhưng chưa được thẩm phân máu] và 2 nghiên cứu trong giai đoạn lọc máu [N=97 bệnh nhân suy thận mạn đã dùng thuốc đang được thẩm phân máu]); 1.404 bệnh nhân ung thư đã dùng thuốc trong 16 nghiên cứu về thiếu máu do hóa trị liệu; 144 bệnh nhân đã dùng thuốc trong 4 thử nghiệm ở bệnh nhân nhiễm HIV; 147 bệnh nhân đã dùng thuốc trong 2 thử nghiệm ở bệnh nhân hiến máu tự thân; và 213 bệnh nhân đã dùng thuốc trong một nghiên cứu ở bệnh nhân chu phẫu. Bảng 7 tóm tắt các phản ứng bất lợi của thuốc được báo cáo ở ≥ 1% các bệnh nhân được điều trị với epoetin alfa trong những thử nghiệm lâm sàng này:
Tần suất quy ước: Rất phổ biến (≥1/10), Phổ biến (≥1/100 đến <1/10), Không phổ biến (≥1/1.000 đến <1/100), Hiếm (≥1/10.000 đến <1/1.000), Rất hiếm (<1/10.000), Không biết (không thể dự đoán được từ dữ liệu có sẵn).
– xem Bảng 7.
Kinh nghiệm hậu mãi
Các phản ứng bất lợi của thuốc epoetin alfa được ghi nhận trong thời gian hậu mãi được bao gồm trong Bảng 8.
Trong bảng này, các tần suất được đưa ra theo quy ước sau: Rất phổ biến ≥1/10, Phổ biến ≥1/100 và <1/10, Không phổ biến ≥1/1.000 và <1/100, Hiếm ≥1/10.000, <1/1.000, Rất hiếm <1/10.000, bao gồm những báo cáo riêng biệt.
Chứng bất sản hồng cầu đơn thuần (PRCA) sau nhiều tháng đến nhiều năm điều trị bằng Erythropoietin đã được ghi nhận với tỷ lệ rất hiếm gặp (<1/10.000 trường hợp/bệnh nhân/năm) (xem mục Cảnh báo).
– xem Bảng 8.
Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Ngừng sử dụng thuốc. Với các phản ứng bất lợi nhẹ, thường chỉ cần ngừng thuốc. Trường hợp mẫn cảm nặng hoặc phản ứng dị ứng, cần tiến hành điều trị hỗ trợ (giữ thoáng khí và dùng epinephrin, thở oxygen, dùng kháng histamin, corticoid…).
4.8 Tương tác với các thuốc khác:
Không có bằng chứng cho thấy điều trị với epoetin alfa làm thay đổi sự chuyển hoá của các thuốc khác. Các thuốc làm giảm sự tạo hồng cầu có thể làm giảm đáp ứng với epoetin alfa.
Vì cyclosporin được gắn kết với hồng cầu nên có thể có tương tác thuốc. Nếu epoetin alfa được dùng đồng thời với cyclosporin thì cần theo dõi nồng độ cyclosporin trong máu để điều chỉnh liều cyclosporin khi hematocrit tăng.
Không có bằng chứng cho thấy có tương tác giữa epoetin alfa và G-CSF hoặc GM-CSF khi xét về sự biệt hóa của các tế bào máu hoặc sự tăng sinh của các tế bào khối u từ các mẫu sinh thiết in vitro.
Tác động của epoetin alfa có thể tăng thêm khi điều trị đồng thời với một thuốc bổ máu, như sắt sulphat, khi có tình trạng thiếu sắt.
Ở những bệnh nhân ung thư vú di căn, tiêm dưới da epoetin alfa 40.000 IU/mL đồng thời với trastuzumab (6 mg/kg) đã không ảnh hưởng đến dược động học của trastuzumab.
4.9 Quá liều và xử trí:
Khoảng điều trị của epoetin alfa rất rộng. Quá liều epoetin alfa có thể gây ra những tác dụng dược lý quá mức của hormon này. Có thể mở tĩnh mạch nếu hemoglobin máu quá cao. Có thể sử dụng các biện pháp điều trị hỗ trợ khi cần thiết.
5. Cơ chế tác dụng của thuốc :
5.1. Dược lực học:
Epoetin alfa là một glycoprotein được sản xuất bằng kỹ thuật tái tổ hợp ADN.
EPREX là dung dịch đệm, vô trùng, trong suốt, không màu chứa nhiều hàm lượng epoetin alfa khác nhau trong khoảng 1.000 và 40.000IU, dùng để tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Epoetin alfa có công thức với 0,03% polysorbat 80 và 0,5% glycin đựng trong ống tiêm chứa sẵn thuốc, có chia vạch.
Epoetin alfa có độ tinh khiết cao nhất theo công bố về kỹ nghệ hiện tại. Không phát hiện có phần cặn của tế bào được sử dụng trong sản xuất ở những nồng độ của hoạt chất dùng trên người.
Hiệu quả và tính an toàn trên lâm sàng
Suy thận mạn
[Epoetin alfa đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng để điều trị thiếu máu và duy trì hematocrit trong khoảng 30-36% ở những bệnh nhân người lớn suy thận mạn thiếu máu, bao gồm những bệnh nhân lọc máu và chưa lọc máu].
[Trong những thử nghiệm lâm sàng với liều khởi đầu từ 50-150 IU/kg ba lần một tuần, khoảng 95% bệnh nhân có đáp ứng với mức tăng hematocrit có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Sau khoảng hai tháng điều trị, hầu như tất cả bệnh nhân không còn phụ thuộc vào truyền máu. Một khi đạt được khoảng nồng độ hematocrit nêu trên, liều duy trì được điều chỉnh cụ thể theo từng bệnh nhân].
[Trong ba thử nghiệm lâm sàng lớn nhất đã được thực hiện trên những bệnh nhân người lớn đang lọc máu, liều duy trì trung vị cần thiết để giữ mức hematocrit ở khoảng 30-36% là khoảng 75 IU/kg ba lần một tuần].
[Trong một nghiên cứu về chất lượng cuộc sống, mù đôi, đa trung tâm, có đối chứng với giả dược, thực hiện ở những bệnh nhân suy thận mạn đang lọc máu, sự cải thiện khi đánh giá về độ mệt mỏi, các triệu chứng thực thể, các mối quan hệ và tính trầm cảm (Bảng câu hỏi Bệnh Thận) có ý nghĩa cả về thống kê và lâm sàng đã được ghi nhận trên những bệnh nhân điều trị với Epoetin alfa so với nhóm giả dược sau sáu tháng điều trị. Những bệnh nhân từ nhóm được điều trị với epoetin alfa cũng được đưa vào một nghiên cứu nhãn mở, mở rộng và đã chứng tỏ có sự cải thiện về chất lượng cuộc sống được duy trì thêm 12 tháng].
Bệnh nhân người lớn suy thận chưa lọc máu
[Trong những thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trên những bệnh nhân suy thận mạn chưa lọc máu được điều trị với epoetin alfa, thời gian điều trị trung bình gần 5 tháng. Những bệnh nhân này có đáp ứng với epoetin alfa tương tự như các quan sát thấy trên những bệnh nhân có lọc máu. Những bệnh nhân suy thận mạn không lọc máu chứng tỏ có sự tăng hematocrit duy trì theo liều khi epoetin alfa được tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Tỉ lệ tăng haemotocrit tương tự đã được ghi nhận khi sử dụng epoetin alfa bằng một trong hai đường dùng nêu trên. Hơn nữa, các liều epoetin alfa 75-150 IU/kg một tuần đã duy trì hematocrit trong khoảng 36-38% lên đến 6 tháng].
Trong một nghiên cứu kéo dài khoảng cách liều duy trì của EPREX (1 lần 1 tuần, 1 lần mỗi 2 tuần và 1 lần mỗi 4 tuần), một vài bệnh nhân với khoảng thời gian giữa các liều dài hơn không duy trì đủ nồng độ hemoglobin và đã đạt tiêu chuẩn rút lui do hemoglobin theo định nghĩa của đề cương nghiên cứu (0% cho nhóm 1 lần 1 tuần, 3,7% cho nhóm 1 lần mỗi 2 tuần và 3,3% cho nhóm 1 lần mỗi 4 tuần).
Một thử nghiệm tiến cứu, phân bố ngẫu nhiên (CHOIR) đã đánh giá 1432 bệnh nhân suy thận mạn có thiếu máu mà không lọc máu. Những bệnh nhân được phân bố điều trị với epoetin alfa nhằm đạt mức hemoglobin duy trì 13,5 g/dL (cao hơn mức hemoglobin mục tiêu được khuyến cáo) hoặc 11,3 g/dL. Biến cố tim mạch chính (tử vong, nhồi máu cơ tim, đột quị hoặc nhập viện vì suy tim xung huyết) xảy ra ở 125 (18%) trên 715 bệnh nhân trong nhóm hemoglobin ngưỡng cao hơn so với 97 (14%) trong số 717 bệnh trong nhóm hemoglobin ngưỡng thấp hơn (tỷ lệ nguy cơ [HR] 1,3, 95% CI: 1,0; 1,7; p=0,03).
Điều trị bệnh nhân thiếu máu do hoá trị liệu
Epoetin alfa đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân người lớn ung thư bị thiếu máu có các u dạng đặc và u lympho, và những bệnh nhân với các phác đồ hóa trị khác nhau, bao gồm các phác đồ có chứa platin và không chứa platin. Trong các thử nghiệm này, epoetin alfa được tiêm ba lần một tuần và một lần mỗi tuần đã cho thấy tăng hemoglobin và giảm nhu cầu truyền máu sau tháng đầu điều trị ở bệnh nhân ung thư thiếu máu. Trong một số nghiên cứu, giai đoạn mù đôi được nối tiếp bằng giai đoạn nhãn mở trong đó tất cả bệnh nhân đều dùng epoetin alfa và quan sát thấy có sự duy trì hiệu quả.
Các bằng chứng hiện có gợi ý rằng các đáp ứng sinh hồng cầu đối với việc điều trị bằng epoetin alfa là tương tự nhau giữa các bệnh nhân u hệ máu không thuộc dòng tủy và u dạng đặc và ở những bệnh nhân có hoặc không có thâm nhiễm u tủy xương. Trong các thử nghiệm ở bệnh nhân hóa trị, kết quả cho thấy epoetin alfa và nhóm giả dược có vùng diện tích tương tự nhau ở dưới đường biểu diễn tế bào đa nhân trung tính theo thời gian cũng như tỷ lệ tương tự về số bệnh nhân có số lượng tế bào bạch cầu đa nhân trung tính giảm xuống dưới 1000 và 500 tế bào/μL ở những nhóm bệnh nhân được điều trị với epoetin alfa và giả dược.
Trong một thử nghiệm tiến cứu, phân bố ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược đã được thực hiện ở 375 bệnh nhân thiếu máu với các bệnh lý ác tính không có nguồn gốc từ tủy xương đang được hóa trị với phác đồ không chứa platin, kết quả cho thấy có sự giảm đáng kể các hậu quả do thiếu máu (như mệt mỏi, giảm sinh lực và giảm các hoạt động), được đánh giá bởi các phương tiện và các bảng thang điểm câu hỏi như: Thang điểm đánh giá chung chức năng ở bệnh nhân điều trị ung thư có thiếu máu, thang điểm đánh giá sự mệt mỏi, và thang điểm đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư.
Một nghiên cứu đa trung tâm, nhãn mở, ngẫu nhiên đã được thực hiện trên 2098 bệnh nhân nữ bị thiếu máu do ung thư vú di căn đã dùng hoá trị liệu bước 1 hoặc bước 2. Đây là một nghiên cứu không kém hơn được thiết kế để loại bỏ việc tăng 15% nguy cơ tiến triển của khối u hoặc tử vong của epoetin alfa cộng với chăm sóc theo tiêu chuẩn so sánh với chăm sóc theo tiêu chuẩn đơn thuần. Trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển (PFS) theo đánh giá của nghiên cứu viên về sự tiến triển của bệnh là 7,4 tháng trên mỗi nhánh (HR 1,09, 95% CI: 0,99, 1,20), chỉ ra rằng mục tiêu của nghiên cứu đã không đạt. Trung vị PFS với sự tiến triển bệnh đã được đánh giá bởi Hội đồng Xem xét độc lập là 7,6 tháng trên mỗi nhánh (HR 1,03, 95% CI: 0,92, 1,15). Tại điểm cắt lâm sàng, 1337 ca tử vong đã được báo cáo. Trung vị sống còn toàn bộ trên nhóm epoetin alfa cộng với SOS là 17,2 tháng so với 17,4 tháng trong nhóm SOC đơn thuần (HR 1,06, 95% CI: 0,95, 1,18). Trong nhóm epoetin alfa cộng với SOC số bệnh nhân đã được truyền RBC ít hơn hẳn (5,8% so với 11,4%); tuy nhiên, số lượng bệnh nhân bị có biến cố huyết khối nghẽn mạch trên nhóm epoetin alfa cộng với SOC nhiều hơn hẳn (2,8% so với 1,4%).
Toàn bộ các bằng chứng, bao gồm các kết quả phân tích gộp và kinh nghiệm lâm sàng từ những nghiên cứu có đối chứng của ESA trên những bệnh nhân ung thư, tiếp tục hỗ trợ việc khuyến khích sử dụng ESA khi đánh giá về nguy cơ-lợi ích ở những bệnh nhân thiếu máu do hóa trị, khi sử dụng thuốc theo thông tin kê toa. Trong các phân tích gộp của những nghiên cứu ở bệnh nhân đang được hóa trị, không có sự gia tăng có ý nghĩa về mặt thống kê về tỷ lệ tử vong hoặc tiến triển khối u. Các dấu hiệu trong những thử nghiệm riêng lẻ tiến hành không tuân theo các khuyến cáo của thông tin sản phẩm (hemoglobin mục tiêu trên 12 g/dL và/hoặc không có hóa trị) đã gây nên một số lo ngại (xem phần ”Bệnh nhân ung thư”).
Cơ chế tác dụng:
Erythropoietin (EPO) là một hormon glycoprotein được sản xuất chủ yếu bởi thận để đáp ứng với tình trạng giảm oxy mô, đóng vai trò chính điều hòa quá trình sản sinh hồng cầu. EPO liên quan tới mọi giai đoạn phát triển của hồng cầu, và có tác động chủ yếu lên các giai đoạn phát triển tiền hồng cầu. Sau khi gắn kết vào các thụ thể trên bề mặt tế bào, EPO hoạt hóa các đường dẫn truyền tín hiệu can thiệp vào quá trình chết tế bào theo lập trình (apoptosis) và kích thích tăng sinh tế bào hồng cầu. EPO người tái tổ hợp (epoetin alfa), được thể hiện trong những tế bào buồng trứng chuột Hamster Trung quốc, gồm 165 acid amino có trình tự giống như EPO đường niệu ở người; cả 2 loại EPO này không thể phân biệt được dựa trên các xét nghiệm phân tích chức năng. Trọng lượng phân tử biểu kiến của erythropoietin từ 32.000 đến 40.000 dalton.
Trong các đáp ứng dược lực học đối với epoetin alfa không chứa HSA (Albumin huyết thanh người), sự thay đổi theo phần trăm tỉ lệ hồng cầu lưới, hemoglobin, và tổng số hồng cầu đếm cũng như diện tích dưới đường cong (AUC) của các thông số dược lực học này là tương tự nhau giữa hai phác đồ liều (150 IU/kg tiêm dưới da ba lần một tuần và 40.000 IU/mL tiêm dưới da một lần mỗi tuần).
ESAs là những yếu tố tăng trưởng chủ yếu kích thích sự tạo thành hồng cầu. Các thụ thể của erythropoietin có thể được thể hiện trên bề mặt của nhiều loại tế bào khối u.
[XEM TẠI ĐÂY]
5.2. Dược động học:
Đường tiêm tĩnh mạch: Đo lường Epoetin alfa sau khi tiêm tĩnh mạch liều 50-100 IU/kg đã cho thấy thời gian bán hủy khoảng 4 giờ ở những người khoẻ mạnh và thời gian bán hủy dài hơn ở những bệnh nhân suy thận, khoảng 5 giờ, sau những liều 50, 100, 150 IU/kg. Thời gian bán hủy khoảng 6 giờ được ghi nhận ở bệnh nhân trẻ em. Với ít nhất 4 ngày lấy mẫu máu dược động học, các ước lượng thời gian bán hủy trong khoảng từ 20,1 đến 33,0 giờ đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân ung thư đang dùng liều Epoetin alfa 667 và 1500 IU/kg tiêm tĩnh mạch.
Đường tiêm dưới da: Nồng độ huyết thanh khi tiêm dưới da thấp hơn tiêm tĩnh mạch. Nồng độ huyết thanh gia tăng chậm và đạt đỉnh 12-18 giờ sau khi tiêm dưới da. Nồng độ đỉnh tiêm dưới da luôn thấp hơn tiêm tĩnh mạch (khoảng 1/20 giá trị).
+ Không có tích lũy liều: Nồng độ huyết thanh vẫn không thay đổi cho dù những dữ liệu được thu thập 24 giờ sau liều đầu tiên hay 24 giờ sau liều cuối cùng. Dữ liệu về nồng độ theo thời gian của erythropoietin ở Tuần 1 và Tuần 4 là tương tự nhau khi dùng nhiều liều 600 IU/kg 1 lần mỗi tuần ở người khoẻ mạnh.
+ Dữ liệu về dược động học cho thấy không có sự khác biệt rõ về thời gian bán hủy giữa bệnh nhân người lớn trên hoặc dưới 65 tuổi.
+ Một nghiên cứu trên 7 trẻ sơ sinh non tháng rất nhẹ cân và 10 người lớn khoẻ mạnh sử dụng erythropoietin tiêm tĩnh mạch cho thấy thể tích phân bố ở trẻ sơ sinh non tháng cao hơn khoảng 1,5-2 lần ở người lớn khoẻ mạnh, và độ thanh thải ở trẻ sơ sinh non tháng cao hơn 3 lần so với người lớn khoẻ mạnh.
+ Thời gian bán hủy khi dùng đường tiêm dưới da là khoảng 24 giờ.
+ Các giá trị thời gian bán hủy trung bình ở các đối tượng khỏe mạnh tương ứng là 19,4±8,1 với nhiều liều 150 IU/kg ba lần một tuần và 15,0±6,1 với liều 40.000 IU/mL một lần mỗi tuần.
+ Trong một nghiên cứu so sánh epoetin alfa có chứa HSA ở các chế độ liều 40.000 IU tiêm dưới da một lần mỗi tuần với 150 IU/kg tiêm dưới da ba lần một tuần ở các đối tượng khỏe mạnh, các thông số sau đã được đánh giá bằng cách sử dụng các dữ liệu đã được hiệu chỉnh đối với nồng độ erythropoietin nội sinh trước khi tiêm thuốc trong Tuần 4:
– xem Bảng 1.
+ Dựa trên sự so sánh diện tích dưới đường cong (AUC), độ sinh khả dụng tương đối của epoetin alfa 40.000 IU một lần mỗi tuần so với 150 IU/kg ba lần một tuần là 176%.
+ Trong một nghiên cứu so sánh 40.000 IU tiêm dưới da một lần mỗi tuần so với 150 IU/kg tiêm dưới da ba lần một tuần của epoetin alfa không chứa HSA ở các đối tượng khỏe mạnh, các thông số sau đã được đánh giá bằng cách sử dụng các dữ liệu đã được hiệu chỉnh đối với nồng độ erythropoietin nội sinh trước khi tiêm thuốc trong Tuần 4:
– xem Bảng 2.
+ Dựa trên sự so sánh diện tích dưới đường cong (AUC), độ sinh khả dụng tương đối của epoetin alfa 40.000 IU/mL một lần mỗi tuần so với 150 IU/kg ba lần một tuần là 239%.
+ Sinh khả dụng của epoetin alfa tiêm dưới da sau một liều 120 IU/kg thì thấp hơn nhiều sinh khả dụng của thuốc khi tiêm tĩnh mạch: khoảng 20%.
+ Các thông số dược động học đã được đánh giá khi dùng thuốc epoetin alfa có chứa HSA với liều 150 IU/kg ba lần một tuần hoặc với liều 40.000 IU/mL một lần mỗi tuần ở các đối tượng nghiên cứu khỏe mạnh và các bệnh nhân ung thư bị thiếu máu đang được điều trị với các liệu trình hóa trị theo chu kỳ. Các thông số dược động học ở những bệnh nhân ung thư thiếu máu thì khác với những thông số được quan sát thấy ở những đối tượng nghiên cứu khỏe mạnh trong suốt Tuần 1 (khi các bệnh nhân ung thư thiếu máu đang hóa trị) nhưng tương tự trong suốt Tuần 3 (khi các bệnh nhân ung thư thiếu máu không đang hóa trị).
– xem Bảng 3.
+ Các đặc tính dược động học của epoetin alfa không chứa HSA ở các bệnh nhân ung thư bị thiếu máu và đang được hóa trị liệu theo chu kỳ đã được nghiên cứu sau khi cho dùng thuốc với các chế độ liều 150 IU/kg ba lần một tuần và 40.000 IU/mL một lần mỗi tuần. Nhìn chung, các thông số dược động học ở những bệnh nhân ung thư thiếu máu có mức độ biến thiên cao. Về tổng thể, các dữ liệu dược động học đầu tiên của epoetin alfa trong suốt Tuần 1 (khi các bệnh nhân ung thư thiếu máu đang hóa trị liệu) thể hiện nồng độ Cmax cao hơn, tăng thời gian bán hủy, và độ thanh thải thấp hơn bộ dữ liệu dược động học thứ hai trong suốt Tuần 3 hoặc 4 (khi các bệnh nhân ung thư thiếu máu không đang hóa trị liệu).
– xem Bảng 4.
5.3 Giải thích:
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
5.4 Thay thế thuốc :
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
*Lưu ý:
Các thông tin về thuốc trên Pharmog.com chỉ mang tính chất tham khảo – Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn của Bác sĩ
Chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ hậu quả nào xảy ra do tự ý dùng thuốc dựa theo các thông tin trên Pharmog.com
6. Phần thông tin kèm theo của thuốc:
6.1. Danh mục tá dược:
Polysorbate 80 ;Glycine , Water for injections, Sodium dihydrogen phosphate dihydrate, Disodium phosphate dihydrate, Sodium chloride
6.2. Tương kỵ :
Không pha loãng hay chuyển sang bất kỳ vật chứa nào khác. Không được chỉ định truyền tĩnh mạch hoặc kết hợp với các dung dịch thuốc khác.
6.3. Bảo quản:
Bảo quản ở nhiệt độ từ 2oC đến 8oC trong tủ lạnh trong bao bì đóng gói ban đầu, không để ngăn đá. Không để đông lạnh hoặc rung lắc. Giữ nguyên ống tiêm trong hộp thuốc để tránh ánh sáng. Ống tiêm EPREX đang dùng hoặc dự định dùng có thể được giữ ở nhiệt độ phòng (không quá 25oC) trong thời gian tối đa 7 ngày.
Lưu ý: Trường hợp bệnh nhân tự dùng thuốc tại nhà: cán bộ y tế cần thông tin cho bệnh nhân biết về cách bảo quản chế phẩm EPREX để đảm bảo việc tuân thủ đúng điều kiện bảo quản như khuyến cáo nêu trên.
6.4. Thông tin khác :
Hiệu quả và độ an toàn lâm sàng
Độc tính mạn: Ở một vài nghiên cứu về độc tính tiền lâm sàng ở chó và chuột cống, không nghiên cứu ở khỉ, cho thấy điều trị với epoetin alfa có liên quan với chứng xơ hóa tủy xương trên cận lâm sàng. Chứng xơ hóa tủy xương là một biến chứng được biết ở những người suy thận mạn; nó có thể liên quan tới cường tuyến cận giáp thứ phát hoặc những yếu tố không rõ. Trong một nghiên cứu, thấy không có sự khác biệt về tần suất bị xơ cứng tủy xương ở những bệnh nhân thẩm phân máu được điều trị với epoetin alfa trong 3 năm so với bệnh nhân thẩm phân máu không điều trị epoetin alfa.
Tính gây ung thư: Những nghiên cứu lâu dài về tính gây ung thư chưa được thực hiện. Trong y văn có những báo cáo trái ngược liên quan đến ESAs như là chất tăng sinh khối u. Dựa trên những bằng chứng thực nghiệm từ những mẫu khối u của người thì ý nghĩa lâm sàng của những báo cáo này không được biết rõ.
Tính gây đột biến: Epoetin alfa không gây đột biến gen vi khuẩn (Ames Test), sai lệch nhiễm sắc thể ở những tế bào động vật có vú, vi nhân ở chuột nhắt, hoặc đột biến gen ở vị trí HGPRT.
Độc tính trên sinh sản: Các nghiên cứu tiền lâm sàng chứng tỏ không có tính gây quái thai ở chuột hoặc thỏ khi dùng liều tiêm tĩnh mạch lên đến 500 IU/kg/ngày. Tuy nhiên, tiêm tĩnh mạch epoetin alfa có thể gây giảm nhẹ khả năng sinh sản ở liều 500 IU/kg, tăng tỉ lệ mất phôi trước và sau khi làm tổ và giảm trọng lượng thai nhi ở liều 100 và 500 IU/kg/ngày và làm chậm sự hóa xương ở liều 20, 100 và 500 IU/kg/ngày nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Sự phát hiện giảm trọng lượng thai nhi và làm chậm sự hóa xương có liên quan tới giảm trọng lượng cơ thể người mẹ. Tiêm tĩnh mạch ở liều 500 IU/kg/ngày trên nhóm chuột cống đang cho con bú cho thấy có sự giảm tăng trọng lượng cơ thể, chậm mọc lông ở bụng và chậm mở mắt, và giảm số lượng đốt sống đuôi ở các bào thai thế hệ F1. Không có tác động liên quan của epoetin alfa trên các bào thai thế hệ F2.
6.5 Tài liệu tham khảo:
Dược Thư Quốc Gia Việt Nam
Hoặc HDSD Thuốc.